|
1- Hãy chăm chú vào ngày hôm nay
Vì nó là đời sống, chính là
sự sống của đời
sống...
Nó tuy ngắn ngủi
Nhưng chứa tất cả chân lý
về đời ta...
---***---
Đắc nhất nhật quá nhất
nhật
Mùa xuân năm 1871, một thành niên may
mắn đọc được một
câu văn ảnh hưởng sâu xa
tới tương lai của chàng.
Hồi ấy còn là sinh viên y khoa ở trường
Montreal, chàng lo đủ thứ: lo thi ra
cho đậu, đậu rồi sẽ làm
gì, làm ở đâu, sap cho có đủ
thân chủ, kiếm cho đủ ăn?
Nhờ câu văn đọc được
trong sách của Thomas Carlyle mà chàng
trở nên một ý sẽ có danh nhất
thời đó. Chính chàng đã tổ
chức trường y khoa tại Đại
học Oxford, một danh dự cao nhất
trong y giới Anh. Về sau chàng lại
được Anh hoàng phong tước và
khi mất người ta viết hai
cuốn sách dày 1.466 trang để kể
lại thuở sanh hình.
Tên chàng là William Osler. Còn câu văn mà chàng
đọc được mùa xuân năm
1871, câu văn đã giúp chàng quẳng
được gánh lo trong đời chàng
là: ”Những công việc ở ngày trước
mặt ta phải coi là quan trọng
nhất, và đừng bận tâm tới
những công việc còn mờ mờ
từ xa“.
Bốn mười hai năm sau, một
đêm xuân ấm áp, trong khi trăm bông
đua nờ giữa sân trường,
William Osler diễn thuyết trước
sinh viên Đại học Yale đã nói
rằng, thiên hạ đã lầm khi
bảo một người như ông, làm
giáo ự tại bốn trường
đại học và viết một
cuốn sách nổi danh, tất phải có
”bộ óc dị thường“. Vì
những người thân của ông
biết rõ ”óc ông vào hạng tầm thường
nhất“.
Vậy thì bí quyết thành công của ông
ở đâu? Ông đạp lại bí
quyết đó ở chỗ ông biết
”chia đới sống ra từng ngăn,
cách biệt hẳn nhau, mỗi ngăn
một ngày“. ý ông muốn nói gì
vậy? Vài tháng trước buổi
diễn thuyết ở Yale, ông đã
đáp một chiếc tàu biển
lớn, vượt Đại Tây Dương.
Trên chiếc tàu đó, ông thấy người
thuyền trưởng, đứng ở
cầu thang, chỉ nhận vào một cái
nút mà làm chạy một cái máy, tức
thì ngăn thiệt kín những bộ
phận chánh trong tàu, không cho phần này
thông qua phần khác, ví dụ vì tai
nạn nước có tràn vào cũng không
đắm tàu được. Rồi ông
nói tiếp với các sinh viên: ”Cơ
thể chúng ta là một bộ máy kỳ
dị hơn chiếc tàu đó nữa. Tôi
khuyên các anh tập cách điều
khiển bộ máy đó để
sống ngày nào riêng biệt ngày ấy:
đó là cách chắc chắn nhất
để yên ổn trong cuộc viễn
hành. Nhận một nút đi rồi nghe,
trong mỗi đoạn đời,
chiếc cửa sắt sập lại, ngăn
hiện tại với quá khứ. Quá
khứ đã chết, đừng cho nó
sống lại nữa. Nhận một cái
nút khác và đóng kín cửa sắt
của tương lai lại, cái tương
lai nó chưa sanh. Như vậy các anh
được yên ổn-yên ổn trong
ngày hôm nay!.. Đóng quá khứ lại!
Để cho quá khứ đã chết
rồi tự chôn nó... Đóng những hôm
qua lại, chúng đã bước mau
về cõi chết. Để cho gánh
nặng của ngày mai đè lên vào gánh
nặng hôm qua và hôm nay. Sự phung phí năng
lực, nỗi ưu tư sẽ làm cho
ta lảo đảo , nếu ta cứ lo
lắng về tương lai... Vậy
đóng kỹ những bức vách trước
và sau đi, và luyện lấy tập quán
”Đắc nhất nhật quá nhật
nhất“.
Như vậy có phải bác sĩ Osler muôn
khuyên ta đừng nên gắng sức
một chút nào để sửa soạn
ngày mai không?. Không. Không khi nào. Trong
đoạn
cuối bài diễn văn đó, ông nói
rằng, cách hay hơn hết và độc
nhất để sửa soạn ngày mai
là đem tất cả thông minh, hăng hái
của ta tập trung vào công việc hôm
nay.
Hồi xưa, một triết gia, túi không
có một xu, thơ thẩn trong một
miền núi đá mà đân cứ
sống rất vất vả. Một hôm,
nhân thấy một đám đông quây
quần chung quanh mình, trên một ngọn
đồi, ông bèn đọc một
diễn văn mà nhân loại đã trích
lục nhiều hơn hết từ trước
tới giờ. Trong diễn văn có câu
này được lưu truyền muôn
thuở:
”Đừng lo tới ngày mai vì ngày mai
ta phải lo tới công việc của ngày
mai. Ta chỉ lo tới hôm nay thôi cũng
đủ khổ.
Tôi xin nhắc bạn: Câu đó khuyên
đừng ”lo“ tới ngày mai chứ
không phải là đừng ”nghĩ“.
Bạn cứ nghĩ tới ngày mai,
cứ cẩn thận suy nghĩ, dự tính,
sửa soạn đi, nhưng đừng
lo lắng gì hết.
Trong chiến tranh vừa rồi, các nhà
chỉ huy tối cao của quân đội
ta luôn luôn dự tính cho ngày mai và cả
những ngày còn xa hơn nữa, nhưng
họ không bao giờ vì vậy mà ưu
tư cả. Đô đốc E.J.King
chỉ huy hải quân Huê Kỳ nói: ”Tôi
đã đưa những khí giới
tốt nhất cho những quân tài cán
nhất và đã giao phó sứ mạng
cho họ trong lúc tiện nghi nhất.
Đó, tôi chỉ làm được có
vậy thôi“. Đô đốc tiếp:
”Một chiếc tàu bị đắm, tôi
không thể cứu nó được. Dùng
thì giờ của tôi để tính công
việc sắp tới, ích lợi
nhiều hơn là ưu phiền về
những lỗi lầm hôm qua. Vả
lại nếu tôi nghĩ tới
chuyện cũ hoài, chắc tôi không
thể sống lâu“.
Trong thời loạn cũng như
thời bình, khéo suy với vụng suy
chỉ khác nhau ở chỗ này: khéo suy là
nghĩ kỹ về nhân quả rồi hành
động một cách hợp lý, hữu
ích; còn vụng suy chỉ làm cho thần
kinh ta căng thẳng và suy nhược
thôi.
Mới rồi tôi được cái hân
hạnh phỏng vấn ông Arthur Sulzberger,
chủ bút một tờ báo nổi danh
nhất thế giới, tờ ”Nữ
ước nhật báo“. Ông nói với tôi
rằng khi chiến tranh thứ nhì bùng lên
ở Âu Châu, ông gần như chết
điếng, lo về tương lai đến
nỗi mất ngủ. Nửa đêm ông
thưởng tỉnh giấc, nhìn bóng
trong gương rồi lấy bút,
sợn tự vẽ mặt ông.
Ông không biết chút gì về môn hội
hoạ hết, nhưng ông cứ vẽ càn
cho óc khỏi phải lo lắng.
Một thanh niên Mỹ đang tùng chinh lên
bên Châu Âu cũng vậy. Chàng tên lê Ten
Bengermino bị lo lắng giày vò tới
nỗi thần kinh suy nhược
nặng.
Chàng viết: ”Tháng tư năm 1945, vì
quá lo nghĩ, tôi mắc một chứng
bệnh ruột, đau đớn vô cùng.
Nếu chiến tranh không kết liễu
ngay lúc đó thì chắc là tôi nguy
rồi. Tôi mỏi mệt quá lẽ. Lúc
đó tôi làm hạ sĩ quan ở
bộ binh, đội thứ 94. Công
việc của tôi là ghi tên những người
hoặc tử trận, hoặc mất tích,
hoặc nằm nhà thương. Tôi
phải thu những đồ dùng của
họ để gởi về cho thân nhân
họ, vì người ta trọng
những kỷ niệm đó lắm. Tôi
luôn luôn sợ vì lúng túng mà rồi
lẫn lộn đáng tiếc chăng. Tôi
lo lắng không biết có làm tròn
phận sự không, có sống sót để
về ôm đứa con một hay không-
đứa con mới 6 tháng mà tôi chưa
được biết mặt. Tôi lo
lắng mệt nhọc đến mức
mất 17 ki lô. Tôi hoảng hốt
gần hoá điên. Tôi ngó tay tôi chỉ
thấy còn da với xương. Nghĩ
tới khi về nhà, thân hình tiền
tuỵ mà sợ, khóc lóc như con nít. Tâm
hồn bị rung động quá
chừng, nên mỗi khi ngồi một mình
là nước mắt tràn ra. Có một
hồi, ít lâu sau trận Bulge, tôi khóc
nhiều quá, không còn hy vọng gì tinh
thần sẽ thư thái như xưa
nữa.
Sau cùng, tôi phải vào nằm nhà thương.
Vị bác sĩ săn sóc tôi chỉ khuyên
có vài lời mà thay đổi hẳn
đời tôi. Sau khi đã khám kỹ cơ
thể tôi, ông nhanạ rằng bệnh tôi
thuộc bệnh thần kinh. ”Này anh Ted,
anh nên coi đời của anh như cái
đồng hồ cát. Anh biết rằng
phần trên đồng hồ đó có
dựng hàng ngàn hột cát. Và những
hột cát ấy, đều lần
lần liên tiếp nhau, chui qua cái cổ
nhỏ giữa để rớt xuống
phần dưới. Không có cách gì cho
nhiều hạt cát chui cùng một lúc
được, trừ phi là đập
đồng hồ ra. Hết thảy
bọn chúng ta đều như chiếc
đồng hồ ấy. Buổi sáng,
thức dậy, ta có hàng trăm công
việc phải làm trong nội ngày. Nhưng
nếu chúng ta không làm từng việc
một, chậm chạp, đều đều
như những hột cát chui qua cái
cổ đồng hồ kia thì chắc
chắn là cơ thể và tinh thần ta
hư hại mất“.
”Tôi đã theo triết lý đó từ
ngày ấy. Mỗi lần chỉ có
một hột cát xuống thôi... Mỗi
lần chỉ làm một việc thôi.
Lời khuyên đó đã cứu thể
chất và tinh thần tôi trong hồi
chiến tranh, mà bây giờ còn giúp tôi
trong công việc làm ăn nữa. Tôi là
một viên kiểm soát số hàng dự
trữ của một công ty ở
Baltimore. Tôi thấy trong nghề buôn cũng
có những khó khăn y như trong
hồi chiến tranh: có cả chục công
việc phải làm tức thì mà thời
giờ rất hẹp. Nào lo làm những
giấy tờ mới, lo tính toán số
dự trữ mới, nào lo những thay
đổi địa chỉ, lo mở thêm
hoặc đông đóng bớt những
chi nhánhv.v. Nhưng tôi không nóng nẩy và
luôn luôn nhớ lời khuyên của bác sĩ:
”Mỗi lần chỉ có một hột
cát xuống thôi. Mỗi lần chỉ làm
một việc thôi“. Tôi tự nhắc
đi nhắc lại câu đó và làm
việc một cách rất hiệu
quả, không hoảng hốt hay có
cảm giác ruột rối như tơ vò
nó làm cho tôi chết dở ở mặt
trận khi xưa nữa“.
Một trong những tình trạng ghê
ghớm nhất của đời
sống bây giờ là một nửa
số bệnh nhân điều trị
tại các nhà thương là những người
mắc bệnh thần kinh hay loạn óc.
Họ bị đè bẹp dưới
sức nặng của những lo lắng
về quá khứ lẫn với tương
lai. Mà đại đa số những
bệnh nhân đó đều có thể
khoẻ mạnh, đi đứng như
thường, ngay từ hôm nay sống
một đời sung sướng, hay hơn
nữa, một đời hữu ích
nếu họ chịu nghe lời khuyên
của Wiliam Osler: ”Chia đời
sống thành từng ngăn, cách biệt
hẳn nhau, mỗi ngăn là một ngày“.
Bạn và tôi, ngay trong lúc này đây, chúng
ta đứng tại chỗ hau cái vô
tận gặp nhau: cái dĩ vãng mênh mông
có từ thời khai thiên lập địa
và cái tương lai nó bắt đầu
từ tiếng cuối cùng mà tôi mới
thốt. Chúng ta không thể sống trong
cả hai cái vô tận đó được,
dù chỉ là trong một phần giây. Mà
hễ rắng cái vô tận đó thì ta
sẽ làm hai cho tinh thần và thể
chất của ta liền. Vậy chúng ta
hãy chịu sống trong hiện tại vì
ta chỉ có thể sống được
trong hiện tại thôi.
Robert Louis Stevenson nói: ”Bất kỳ ai cũng
có thể làm công việc hàng ngày
của mình được, dù công
việc đó nặng nhọc tới
bực nào đi nữa. Bất kỳ ai
cũng có thể sống một cách êm
đềm, trong sạch, kiên nhẫn,
đầy tình thương chan chứa
trong lòng, từ mặt trời mọc cho
tới khi mặt trời lặn. Đó,
ý nghĩ của cuộc đời như
vậy“.
Phải, đời chỉ đòi hỏi
ta có bấy nhiêu thôi. Nhưng bà
E.K.Shields ở Michigan lại thất
vọng tới nỗi muốn tự
tử, trước khi học được
cách sống từng ngày một. Bà
kể với tôi: ”Năm 1937 nhà tôi
mất, tôi đau đớn thất
vọng lắm và gia tư gần như
khánh kiệt. Tôi viết thư xin
việc ông chủ cũ của tôi là ông
Leo Roach ở Công ty Roach-Fowler và được
cửa làm lại việc cũ. Hồi xưa,
tôi đã bán sách cho các trường
tỉnh và trường làng để
kiếm ăn. Hai năm trước tôi bán
trước tôi bán chiếc xe hơi
để lo thuốc thang cho nhà tôi. Nhưng
tôi cũng ráng thu nhặt tiền nong
để mua dài hạn một chiếc
xe cũ rồi chở sách đi bán.
Tôi tưởng trở về nghề cũ
như vậy sẽ bớt ưu
phiền, tinh thanà sẽ phấn khởi
lên được; song tôi gần như
không chịu nổi cảnh thui thủi
một mình trên đường và trong quán
trọ. Miền tôi bán sách dân tình nghèo
khổ, ít người mua cho nên số
lời không đủ để trả
tiền xe.
Mùa xuân năm 1938, tôi đến bán
ở gần Versailles. ở đây trường
học nghèo, đường xấu, tôi
thấy cô đơn, thất vọng
đến nỗi có lần muốn
tự tử, cho rằng không sao thành công
được hết. Mà cũng
phải, làm sao đủ sống
được? Mỗi buổi sáng khi
tỉnh dậy , nghĩ tới nỗi
phấn đấu với đời, tôi
lo sợ đủ thứ: Sợ khong
trả nổi tiền xe: sợ không
trả nỗi tiền phòng, không kiếm
đủ ăn, sợ rồi sẽ
đau ốm không có tiền uống
thuốc. Nhưng may có hai điều làm
cho tôi khong tự tử là nếu tôi
chết thì các em tôi sẽ khổ
lắm và tôi không có đủ tiền
để lại cho họ làm ma tôi.
Rồi một hôm ngẫu nhiên tôi đọc
một bài báo nó kéo tôi ra khỏi
cảnh thất vọng và khiến tôi
đủ can đảm để
sống. Tôi sẽ suốt đời mang
ơn tác giả bài đó, người
viết câu này: ”Đối với
một đại nhân thì một ngày
mới là một đời sống
mới“. Tôi đánh máy lại câu
ấy rồi dán lên tấm kính che mưa
trong xe tôi, để trong khi cầm lái, lúc
nào tôi cũng phải ngó tới. Từ
đó, tôi thấy chỉ sống
từng ngày một thì đời
sống không khó khăn gì cả. Tôi
tập quên đi dĩ vãng và khong nghĩ
tới tương lai nữa. Mỗi
buổi sáng tôi tự nhủ: ”Ngày hôm
nay là một đời sống
mới“. Nhờ vậy tôi thắng
được nỗi lo sợ cảnh cô
đơn, hăng hái và yêu đời. Bây
giờ tôi biết rằng ta chỉ
sống được nội ngày hôm nay
thôi, không sống được thời
dĩ vãng và tương lai và ”Đối
vơí một đạt nhân thì một
ngày mới là một đời sống
mơí“.
Bạn có biết tá gỉa của
những câu thơ này là ai không?
Ai kia sung sướng suốt đời
Vững lòng nói được 'Của tôi
ngày này'
Ngày mai, mặc kệ: mai ngày
Vì tôi đã sống hôm nay, đủ
rồi'.
ý thơ có vẻ mới lắm, phải
không bạn? Vậy mà câu đó thi hào
Horace đã viết 30 năm trước
Thiên Chúa giáng sinh đấy.
Một trong những điều bi đát
nhất là loài người có tánh
muốn đẩy bỏ đời
sống hiện đại đi. Hết
thảy chúng ta đều mơ mộng
những vườn hồng diễm
ảo ở chân trời thăm thẳm mà
không chịu thưởng thức
những bông hoa nở kề ngay bên
cửa sổ.
Tại sao chung ta điên như vậy?
Điên một cách thê thảm như
vậy? Stephen Leacok viết: ”Lạ lùng
thay cái chuỗi đời của ta. Con nít
thì nói: ”Ước gò tôi lớn thêm
được vài tuổi nữa“. Nhưng
khi lờn vài tuổi rồi thì sao? Thì
lại noí: ”Ước gì tôi tới
tuổi trưởng thành“. Và khi
tới tuổi trưởng thành lại
nói: ”Ước gì tôi lập gia đình
rồi ở riêng“. Nhưng khi thành gia
rồi thì làm sao nữa? Thì lời ước
lại đổi làm: ”Ước gì ta
già được nghỉ ngơi“. Và
khi được nghỉ ngơi rồi
thì lại thương tiếc quảng
đời đã qua, và thấy như có
cơn gió lạnh thổi qua quảng
đời đó. Lúc ấy đã
gần xuống lỗ rồi, còn hưởng
được gì nữa. Khi ta biết
được rằng đời
sống ở trong hiện tại, ở
trong từng ngày một, thì đã
trễ quá rồi mà“.
Ông Edward S.Evans gần tự huỷ đời
ông cho tới khi ông học được
rằng: ”Đời sống ở trong
hiện tại, ở trong ngày đang
sống, trong giờ đang sống“.
Sinh trong một gia đình nghèo, nghề
đầu tiên của ông là bán báo,
rồi làm công cho một tiệm tạp
hoá. Sau ông giúp việc trong thư
viện, để nuôi một gia đình
7 người. Lương ít mà khóng dám
bỏ sở. Sau 8 năm do dự, ông
mới quyết định tạo
lại cuộc đời. Mới ra
với số vốn là 55 mỹ kim mượn
của bạn, ông phát đạt ngày và
mỗi năm kiếm được
20.000 mỹ kim. Rồi thì ông gặp
một chuyện rủi, tai hại đến
nỗi giết ông được. Ông cho
một người bạn cho vay một
số tiền lớn và người
bạn đó vỡ nợ. Rồi
hoạ vô đơn chí: nhà ngana hàng ông
gởi tiền cũng vỡ nợ.
Sự nghiệp tiêu tan hết, ông còn
mắc thêm món nợ 16.000 mỹ kim
nữa. Đau đơn quá, ông không
chịu nổi. Ông nói: ”Tôi ăn không
được, ngủ không được.
Tôi đau một chứng kỳ dị mà
nguyên nhân chỉ là ưu phiên chứ không
có chi khác. Một hôm đương
đi, tôi té xỉu trên lề. Từ lúc
đó tôi không cất chân được
nữa. Tôi phải nằm liệt giường,
mụt mọc đầy mình. Những
mụt đó sưng mà không vỡ, sau cùng
bác sĩ nói với tôi rằng tôi
chỉ sống được hai tuần
nữa thôi. Tôi lo sợ lắm, viết
di chúc rồi nằm đợi chết.
Từ lúc đó, tôi hết phải lo
lắng, phấn đấu nữa. Tôi
bỏ tuốt cả, nghỉ ngơi
rồi thì, vì yêu trí đợi chết,
tôi ngủ được. Đã hàng
tuần trước đây, chưa bao
giờ tôi ngủ được luôn hai
giờ, nhưng lúc ấy biết
chắc sẽ giũ sạch nợ đời,
ngủ li bì như một em bé. Hết lo
thì thôi tôi cũng hết mệt, ăn
được và lên cân.
Vài tuần sau, tôi chống nạng đi
được. Rồi sau sáu tuần tôi
đi làm lại. Trước kia tôi
kiếm 20.000 mỹ kim một năm, bây
giờ kiếm được mỗi
tuần 30 mỹ kim mà tôi thấy hài lòng.
Tôi đã học được một bài
học mới, không cò lo lắng, không còn
tiếc thời phong lưu trước,
khong lo về tương lai nữa. Tôi
đem hết thời giờ, nghị
lực và hăng hái để làm
nghề mới của tôi“.
Thế rồi ông Edward S.Evans lại lên
như diều. Chỉ trong vài năm
được làm hội trưởng Công
ty. Những chứng khoán của Công ty ông,
được Sở Hối đoái
Nữu Ước cho là có giá trị. Cho
đến năm 1945, ông mất thì đã
là một trong những nhà doanh nghiệp
mau phát đạt nhất ở Mỹ.
Nếu bạn ngồi bán máy bay tới
Greenland, phi cơ của bạn có thể
đáp xuống phi trường Evans,
một phi trường mang tên ông.
Ta phải kết luận rằng:
Chắc chắn không khi nào ông Edward
S.Evens được hưởng cái thú
thành công như vậy, nếu ông không
biết đượng diệt ưu tư,
nếu ông đã không học được
cách chia đời sống ra từng ngày
một, ngày nầy cách ngày khác biệt
hẳn với ngày khác.
Năm trăm năm trước khi Thiên
Chúa giáng sinh, triết gia Hy lạp
Heraclite bảo đệ tử rằng:
”Mọi vật đều thay đổi.
Các đệ tử không tắm hai
lần trên một khúc sông“. Vì sông
đó cũng vậy. Đời sống
là một cuộc biến đổi không
ngừng. Chúng ta chỉ chắc chắn
một điều là ta dang sống trong
hiện tại. Thế thì tại sao
lại nằng nặc đòi giải
quyết những vấn đề về
tương lai, để làm phai mờ cái
đẹp của hiện tại? Tương
lai còn bị bao phủ trong những
biến dịch không ngừng, nhữn
biến dịch mà không ai đoán trước
được kia mà!
Người La Mã hồi xưa cũng có
một tiếng để diễn ý đó.
Thiệt ra là hai tiếng ”Carpe diem“ nghĩa
là ”Vui ngày hôm nay đi“. Phải
nắm lấu ngày hôm nay và tấn hưởng
cái thú của nó đi.
Ông John Ruskin đặt trên bàn giấy
của ông một phiến đá nhỏ
trên đó có khắc hai chữ: ”Hôm
nay“. Tôi không có phiến đã kia trên bàn,
nhưng tôi có một bài thơ dán trên
tấm gương trong phòng tắm để
mỗi buổi sáng tôi thấy một
lần, khi cạo râu. Bài thơ đó là
nhà soạn kịch trứ danh ở
ấn Độ là ông Kalidasa làm và ông
William Osler chép lại, luôn luôn để
trên bàn giấy ông:
Chào Bình Minh
'Hãy chăm chú vào ngày hôn nay,
Vì nó là đời sống, chính là
sự sống của đời
sống...
Nó tuy ngắn ngủi
Nhưng chứa tất cả chân lý
về đời ta
Sự sung sướng khi tiến phát,
Sự vẻ vang của hành động,
Sự rực rỡ của thành công.
Vì hôm qua chỉ là một giấc
mộng,
Vì ngày mai chỉ là một ảo tưởng.
Nhưng hôm nay, nếu sống đầy
đủ, ta sẽ thấy
hôm qua là một giấc mộng êm đềm.
Và ngày mai là hình ảnh của hy
vọng.
Vậy ta hãy chăm chú kỹ vào hôm nay!
Lời chào bình minh của tôi là vậy
đó.
|
2- Một cách thần hiệu để
giải quyết những tình thế
rắc rối
Bạn muốn biết một phương
pháp chắc chắn để giải
quyết những tình thế rắc
rối - một thuật mà bạn có
thể dùng ngay bây giờ, trước
khi đọc những chương sau.
Vậy xin bạn để tôi kể phương
pháp mà ông Willis H. Carrier đã tìm
được.
Ông là một kỹ sư, tiếng tăm
lừng lẫy, đã sáng tạo ra
kỹ nghệ điều hoà không khí và
hiện nay đứng đầu
nghiệp đoàn Carrier pử Syracuse. Phương
pháp đó là một trong những
thuật khéo nhất mà tôi được
biết, để giải quyết
những vấn đề rắc rối.
Chính ông Carrier đã dạy tôi bữa cơm
trưa dùng với ông tại câu lạc
bộ kỹ sư ở Nữu Ước.
Ông nói: ”Còn trẻ, tôi giúp việc Công
ty luyện kim Buffalo ở Nữu Ước.
Người ta giao cho tôi sáng tạo
một máy lọc hơi dùng trong một
nhà máy lớn Crystal City, tại Missouri. Công
việc đó tốn hàng vạn mỹ
kim có mục đích lọc hơi trong lò
hết chất dơ, rồi dùng hơi
đó để đốt thay than mà không
hại cho máy. Phương pháp lọc hơi
đó còn mới mẻ, từ trước
mới thí nghiệm có một lần và
trong điều kiện không thuận
tiện lắm. Kho toi bắt tay vào
việc ở Crystal City thì nhữn
trở lực bất ngờ mới
hiện ra. Cái máy tôi tạo ra chạy cũng
được, nhưng không hoàn mỹ
đúng với lời tôi cam kết.
Khi sự thất bại ấy đã
hiển nhiên, tôi choáng váng gân như có
kẻ nào đạp mạnh vào đầu
tôi vậy. Bao tử và ruột tôi như
quặn lại. Tôi lo lắng tới
nỗi mất ngủ trong một thời
gian dài.
Sau cùng lương tri nhắc tôi rằng
lo lắng như vậy vô ích, va tôi
kiếm ra một phương pháp để
giải sự ưu tư đó. Phương
pháp ấy đã đem cho tôi một
kết quả thần diệu và trên 30 năm
nay tôi dùng để diệt lo. Nó
giản dị vô cùng và ai cũng áp
dụng được. Có ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất:
Tôi can đảm phân tích tình thế
một cách ngay thẳng và tự hỏi
nếu thất bại thì kết quả
tai hại nhất sẽ ra sao? Không ai
bỏ tù hoặc bắn tôi mà sợ.
Điều đó thì chắc chắn. Có
lẽ tôi sẽ mất việc, và cũng
có lẽ hãng sẽ gỡ bỏ bộ máy
của tôi đo và như vậy cái
vốn hai vạng mỹ kim mà Công ty
đã bỏ vào việc đó sẽ tan
ra khói.
Giai đoạn thứ nhì:
Sau khi đã nghĩ tới những
kết quả tai hại nhất có
thể xả ra được đó, tôi
nhất quyế đành lòng nhận nó,
nếu cần. Tôi tự nhủ:
”Sự thất bại đó là một
vố đập vào danh tiếng ta và có
thể làm cho ta mất việc. Nhưng
dầu việc này mất, ta vẫn có
thể kiếm được việc khác
thì đã lấy gì làm tai hại cho
lắm? Còn về phần các ông chủ
của tôi, thì họ sẽ nhận
thấy rằng Công ty chỉ là
đương thí nghiệm một phương
pháp mới để tẩy hơi. Thí
nghiệm ấy làm tốn cho họ 20.000
mỹ kim, song họ có thể chịu
đựng được sự lỗ lãi
đó. Họ sẽ tính vào quỹ nghiên
cứu vì đã nói, đây chỉ là
một cuộc thí nghiệm“.
Sau khi đã xét được những
kết quả tai hại nhất có
thể xảy ra, và đành lòng nhận
nó, nếu cần, tôi cảm thấy
một điều cực kỳ quan
trọng: là tức thì tinh thần tôi
lại thảnh thơi, bình tĩnh như
xưa vậy.
Giai đoạn thứ ba:
Từ lúc ấy, tôi bình tĩnh dùng
hết thời giờ và nghị lực
để kiếm cách giảm bớt cái
hại của những kết quả mà
tôi đã cam lòng chịu nhận.
Tôi ráng tím chách cho bớt lỗ. Thí
nghiệm nhiều lần và sau cùng
thấy chắc chắn rằng nếu
chịu bỏ thêm chừng 5.000 mỹ kim
nữa để cải tạo một
bộ phận thì máy của chúng tôi
sẽ hoàn toàn. Chúng tôi làm đúng như
vậy, và ... hãng chúng tôi chẳng
những đã khỏi lỗ hai vạn
mỹ kim mà còn được vạn rưỡi
mỹ kim là khác.
Tôi tin chắc rằng không bao giờ tôi
nghĩ ra được cách cải
tạo đó nếu tôi cứ rối
rắm như trước. Vì sự lo
lắng có cái kếa quả khốc
hại là làm cho ta mất khả năng
tập trung tư tưởng. Khi ta lo, óc
ta luôn luôn chuyển từ ý này qua ý khác,
và cố nhiên ta mất hẳn năng
lực quyết định. Trái lại
khi chúng ta can đảm nhìn thẳng vào
những kết quả khốc hại và
đnàh lòng chịu nhận nó, thì
lập tức ta bỏ ngay được
hết những nỗi lo lắng tưởng
tượng để tự đặt
ta vào một tình trang khách quan có thẻ
giúp ta tập trung hết tư tưởng
vào vấn đề mà ta đang giải
quyết.
Chuyện tôi vừa kể xỷa ra
từ lâu rồi. Nhưng phương pháp
ấy đã có kết quả mỹ mãn
tới nỗi từ đấy tới
nay tôi luôn luôn dùng nó và nhờ nó mà
đời tôi gần như không còn
biết lo là gì nữa“.
Nay xét về tâm lý thì vì đâu mà phương
pháp của ông H. Carrier lại quý báu và
có kết quả thần hiệu như
vậy?
Có phải chỉ vì nó kéo theo ta qua
khỏi một đám sương mù mà
trong đó ta đang dò dẫm? Nó đặt
chân ta trên một khu đất vững
chắc. Ta biết rõ ta hienẹ đứng
đâu. Khi ta không có một căn
bản chắc chắn, thì sao có thể
hy vọng tính toán, suy nghĩ kỹ
về một vấn đề được?
Giáo sư William James, người sáng
lập ra hoa tâm lý thực hành, đã
mất 38 năm rồi, nhưng nếu bây
giờ ông ông còn sống mà được
nghe nói tới phương pháp đó thì
chắc ông cũng nhiệt liệt hoan
nghênh. Tại sao tôi biết như
vậy? Vì chính ông đã khuyên học
sinh của ông: ”An tâm nhận cảnh
ngộ ấy đi“ vì ”nếu ta
bằng lòng chịu nhận sự đã
xảy ra, ấy là bước đầu
đi tới sự thắng những tai
hại trong bất kỳ biến cố nào“.
Ông Lin Yutang trong một cuốn sách
được rất nhiều người
đọc: ”Sự quan trọng của
cuộc sống“, cũng nghĩ như
vậy. Triết gia Trung Quốc nói:
”Nhận chân sự chẳng may nhất
đã xảy ra là tìm được
sự bình tĩnh chân thiệt trong tâm
hồn rồi“.
Xét về tâm lý, tôi tưởng khi
nhận như vậy, nghị lực
của ta không bị trói buộc nữa.
Mà chính vậy! Khi ta đã chịu
nhận sự chẳng may nhất thì ta có
còn để mất nữa đâu, và như
vậy tức là tự đặt vào
một tình thế chỉ có lợi mà vô
hại. Ông H.Carrier nói: ”Khi tôi ngó
thẳng vào sự chẳng may nhất,
tức thì tôi tìm lại được
sự bình tĩnh đã mất trong
những ngày trước; từ đó tôi
suy nghĩ được“.
Có lý lắm, phải không bạn?
Vậy mà có cả triệu người
quay cuồng lo lắng làm hại đời
mình, vì họ không chịu nhận
sự chẳng may nhất, không ráng
chịu cải thiện tình thế, không
vớt vát những vật còn chưa chìm
trong khi thuyền đắm. Đáng
lẽ gây dựng lại sản
nghiệp của họ, họ lại
đâm ra ”gây lộn một cách chua chát
và kịch liệt với số
phận“ khiến cho đời phải
tăng thêm số người mắc
bệnh chán đời.
Chắc các bạn muốn biết thêm
một ngườ khác đã áp dụng
định thức thần diệu
của H. Carier ra sao? Xin bạn nghe câu
chuyện của một người
chủ hãng bán dầu xăng ở Niu
Ước, trước kia có theo học
lớp giảng của tôi:
”Tôi bị tống tiền! Tôi vẫn
không tin có thể xảy ra như vậy
được. Tôi vẫn không tin
rằng xã hội này lại có thể
xảy ra chuyện y như trên màn
ảnh đó được. Nhưng
chuyện xảy ra thiệt. Công ty
dầu xăng mà tôi làm chủ có
một số xe và một số tàu
xế chuyên đi giao hàng. Lúc đó vì
chiến tranh, dầu xăng bị
hạn chế gắt và người ta
chỉ giao cho chúng tôi vừa đủ
số xăng để phân phát cho khách
hàng thôi. Hình như có vài người tài
xế của chúng ta ăn bớt- mà tôi
không hay- số xăng phải giao cho các
thân chủ để bán lại cho các
”khách hàng“ chợ đen của
họ.
Tôi không hề để ý tới
những sự gian lận đó mãi cho
tới hôm có một người laị
thăm tôi tự xưng là Thanh tra
của chính phủ và đòi tôi một
số tiền trà nước. Hắn nói
hắn có đủ tài liệu, bằng
cớ về hành động bất lương
của bọn tài xế của tôi và
nếu không chịu đút lót hắn sx
tư những tài liệu đó sang
Biện lý cuộc. Tôi biết chắc riêng
tôi, tôi không phải lo gì hết. Nhưng
tôi cũng lại biết rằng theo
luật thì hãng tôi phải chiụ trách
nhiệm về hành động của
ngừi làm công. Hơn nữa, nếu
việc đó đưa ra toà, và
đăng tren mặt báo thì sẽ tai
hại cho Công ty không ít. Mà tôi lấy làm
vinh dự về Công ty của chúng tôi
lắm; vì chính ông thân tôi đã sáng
lập ra nó từ 24 năm trước.
Tôi lo lắng tới nỗi hoá đau,
mất ăn, mất ngủ ba ngày ba
đêm. Tôi luôn luôn quay cuồng. Nên
đấm mõm nó năm ngàn mỹ kim hay
là bảo thẳng nó cứ việc làm
tới, muốn ra sao thì ra? Dù quyết
định cách nào thì kết cục cũng
là tai hại.
Rồi một đêm sau, bỗng dưng
tôi mở cuốn ”Quẳng gánh lo đi
và vui sống“ mà người ta đã
phát cho tôi trong khi theo lớp giảng
của ông Carnegie về thuật nói trước
công chúng. Tôi bắt đầu đọc.
Tới chuyện của ông H. Carrier, tôi
gặp lời khuyên: ”Hãy nhìn thẳng vào
sự tai hại nhất“ Và tôi tự
hỏi: ”Nếu ta khong chịu hối
lộ nó, mặc cho nó đưa tài
liệu ra Biện lý cuộc thì sự
tai hại nhất nếu có, sẽ đến
mức nào?
Tức thì tôi tự trả lời:
”Bất quá thì bị tan tành sự
nghiệp, bị phá sản vì những bài
báo rêu rao chớ không phải lẽ
bị ngồi tù được!“.
Nghĩ vậy tôi liện tự nhủ:
” Được lắm, phá sản thì
cũng đành. Nhưng rồi sao
nữa?“
Rồi thì chắc chắn là mình
phải đi kiếm việc làm. Mà
kiếm việc làm thì đã sao chưa?
Mình thạo về nghề buôn dầu xăng
và có thể gặp nhiều hãng rất
vui lòng đùa mình“.
Sau khi thầm giải quyết như
thế, tôi đã bắt đầu
thấy dễ chịu hơn. Bức màn
âm u bao phủ tôi trọn ba ngày ba đêm,
nay đã vén cao lên được
một chút. Những lo lắng của tôi
cứ dịu lần đi và bỗng
ngạc nhiên thấy bây giờ tôi dã suy
nghĩ được, đã đủ sáng
suốt để bước tới giai
đoạn thứ ba là cải thiện
sự tai hại nhất. Trong khi tôi tìm
giải pháp thì vấn đề tự
hiện ra dưới mắt với
một quan điểm mới. Tôi nghĩ:
”Nếu mình kể rõ tình cảnh cho ông
luật sư của mình, thì có lẽ ông
kiếm được một lối ra mà
mình không nghĩ tới chăng? Và tôi
nhận rằng, thiệt tôi đã ngu, có
mọt điều dễ dàng như
thế mà sao trước không nghĩ
tới“. Nhưng trước kia nao ftôi
có suy nghĩ gì đâu, tôi chỉ lo
lắng thôi. Cho nên tôi nhứt quyết sáng
hôm sau, việc đầu tiên là lại
kiếm ông luật sư. Quyết định
vậy rồi tôi lên giường
ngủ say như một khúc gỗ.
Sáng hôm sau gặp nhau, ông luật sư
của tôi khuyên nên đích thân lại
thăm Biện lý rồi kể tường
tận câu chuyện cho ông hay. Tôi làm
đúng như vậy. Vừa ấp úng
kể xong, tôi ngạc nhiên hết
sức nghe ông biện lý nói rằng
mấy tháng nay ông đã nghe đồn
nhiều về bọn tống tiền
đó, và chính thằng tự xưng là
nhân viên của chính phủ ấy
chỉ là một tên lừa đảo mà
sở Công an đương lùng bắt.
Sau cơn lo lắng ba đêm ba ngày ròng rã,
để đắn đo xem có nên
tặng quân bất lương 5.000
mỹ kim không, mà được nghe
lời nói ấy, thiệt nó nhẹ người
làm sao!
Kinh nghiệm đó dạy tôi một bài
học mà không bao giờ tôi quên. Từ
ngày ấy, mỗi lần gặp một
vấn đề tôi lo lắng thì tôi
lập tức áp dụng định
thức của ông già H. Carrier.
Cũng gần vào lúc ông H.Carrier lo
lắng về cái máy lọc hơi
của ông tại Crystal City, thì có
một anh chàng Broken Bow nghĩ đến
việc di chúc. Tên anh là Fail P.Haney. Anh
bị ung thư trong ruột. Một bác sĩ
chuyên môn đã cho rằng bệnh anh
bất trị. Bác sĩ đó dặn anh
ta kiếng thức này, thức khác và
đừng lo lắng gì hết, phải
hoàn toàn bình tĩnh. Họ cũng khuyên
anh ta nên lập di chúc đi thì vừa.
Bệnh anh bắt buộc anh phải
bỏ địa vị cao sang và đầy
hứa hẹn cho tương lai. Anh không
còn việc gì làm nữa, chỉ còn
chờ cái chết nó từ từ
tới.
Bỗng anh nẩy ra một quyết định,
một quyết định lạ lùng và
đẹp đẽ. Anh nói: ”Chẳng còn
sống bao lâu nữa thì tận hưởng
thú đời đi. Từ trước
tới nay ta vẫn ao ước đi du
lịch thế giới trước khi
chết nó từ từ tới.
Bỗng anh nẩy ra một quyết định,
một quyết định lạ lùng và
đẹp đẽ. Anh nói: ”Chẳng còn
sống bao lâu nữa thì tận hưởng
thú đời đi. Từ trước
tới nay ta vẫn ao ước đi du
lịch thế giới trước khi
chết. Giờ là lúc nên khởi hành
đây“. Rồi ta mua giấy tàu.
Các vị bác sĩ ngạc nhiên vô cùng.
Họ biểu anh Haney: ”Chúng tôi phải
cho ông hay, nếi ông đi du lịch như
vậy người ta sẽ phải
quẳng thây ông xuống biển đa!“
Anh đáp: ”Không đâu! Thân nhân tôi
đã hứa chôn tôi trong một
miếng đất nhà tại Broken Bow.
Vậy tôi sẽ mua một quan tài và mang
theo“.
Anh ta mua một quan tài, chở xuống tàu,
rồi thương lượng với Công
ty để khi chết xác được
giữ trong phòng lạnh cho đến lúc
tàu về đến bến. Rồi anh
đi du lịch với tinh thần
của ông già Omar trong bốn câu thơ này:
Ai ơi tận hưởng thú trần
Trước khi xuống hố trở thành
đất đen
Đất đen vùi lấp đất
đen,
Hết ca, hết nhậu, khỏi
miền tử sanh.
Trong du lịch, anh luôn luôn ”Chén chú chén
anh“. Trong một bức thư tôi còn
giữ đây, anh ta nói: ”Tôi uống huýt
ki lô đa, hút xì gà, ăn đủ
thứ; cả những thứ đặc
biệt của mỗi xứ lạ, độc
có thể giết tôi được. Tôi
tận hưởng những thứ ở
đời bao giờ hết. Gặp gió mùa,
dông tố, đáng lẽ chết vì
sợ, thức tới nửa đêm. Khi
tới Trung Quốc và ấn Độ, tôi
mới nhận thấy những nỗi lo
lắng về công việc làm ăn
của tôi hồi ở nhà, so với
nỗi nghèo nàn đói rét ở phương
Đông còn là một cảnh Thiên
đường. Nghĩ vậy tôi không
lo lắng vô lý nữa và thấy
khoẻ khoắn trong người. Khi
về tơí Mỹ tôi cân thêm 4,5 kí lô.
Tôi gần như quên rằng đã có
hồi đau bao tử và đau ruột.
Không bao giờ tôi mạnh hơn lúc
ấy. Tôi vội vàng bán lại
chiếc quan tài cho một nhà chuyên lo
đám táng và tở lại làm ăn.
Từ hồi đó tôi chưa hề
đau thêm một ngày nào nữa“.
Luc đó anh Haney chưa biết thuật
của Carrier để diệt nỗi lo.
Mới rồi anh ta nói với tôi: ”Bây
giờ tôi nhận thấy rằng tôi
đã theo đúng phương pháp ấy
mà không hay. Tôi an phận nhận lấy
cái tai hại nhất có thể xảy
ra, tức là sự chết. Rồi tôi ráng
cải thiện nó bằng cách tận hưởng
những ngày còn lại“.
Anh ta tiếp: ”Nếu sau khi xuống tàu
tôi còn lo lắng thì chắc chắn là tôi
đã nằm trong quan tài mà trở
về nhà rồi. Nhưng tôi đã để
cho tinh thần hưu dưỡng và
hết lo nghĩ. Sự bình tĩnh trong tâm
hồn đã phát ra môt nguồn sanh
lực mới. Nhờ vậy tôi thoát
chết“.
Định mức trên đã giúp ông H.
Carrier bớt được số
tiền 20.000 mỹ kim cho bọn nhà buôn
ở Niu Ước khỏi phải
nộp 5.000 mỹ kim cho bọn tống
tiền và giúp anh Earl P.Haney tự cứu
mạng mình thì bạn cũng có thể
nhờ nó mà giải quyết được
ít nhiều lo lắng của bạn,
phải chăng? Cũng có thể nó
giải quyết cho bạn một vài
vấn đề khác mà từ trước
bạn cho rằng không có cách nào
giải quyết được, biết
đâu chừng?
|
3- Giết ta bằng cái ưu
sầu
'Những nhà kinh doanh không biết
thắng ưu sầu sẽ chết
sớm'.
Bác sĩ Alexis Carrel
Mới rồi tôi đưa một người
bạn mắc chứng đó lại
Philadephie kiếm một bác sĩ chuyên môm
nổi danh và đã kinh nghiệm
được 38 năm rồi. Bạn có
thể biết các bác sĩ nầy
lời khuyên các bệnh nhân ra sao không?
Ông viết lời khuyền bằng sn trên
một tấm gỗ treo trên tường
giữa phòng khách để cho người
bệnh nào cũng thấy. Dưới
đây là lời khuyên ấy mà tôi đã
chép vào một bao thư trong khi tôi
ngồi chờ được tiếp:
'Nghi ngờ và gii trí'
'Không có gì gii trí và làm cho óc ta
được nghỉ ngi bằng
giấc ngủ, âm nhạc, vui cười.
Nên thích những bn nhạc hay và ngó cái
bề mặt tức cười của
đời.
Như vậy ta sẽ thấy khỏe
mạnh và sung sướng'.
Đến lúc khám bệnh, câu đầu
tiên bác sĩ hỏi bạn tôi là câu
nầy: 'Ông ưu tư nỗi gì mà
đến tình trạng ấy?' Và ông
khuyên: 'Nếu ông không quẳng gánh lo
đi thì ông còn nhiền biến
chứng khác như đau tim, vị ung và
đường sí. Tất c những
chứng đó đều là anh em chú bác
với nhau, anh em chú bác ruột'. Thì
chắc chắn như vậy rồi vì
tất c đều do ưu tư mà sinh
ra!
Khi tôi phỏng vấn cô Merle Oberon cô tuyên
bố rằng cô nhất định
quẳng gánh lo đi, vì cô biết cái
ưu tư sẽ tàn phá cái nhan sắc
của cô, cái bo vật quý nhất,
nhờ nó cô nổi danh trên màn nh.
Cô nói: 'Khi tôi bắt đầu làm đào
hát bóng, tôi lo lắng sợ sệt quá.
Mới ở ấn Độ tới Luân
Đôn tìm viẹc mà không quen ai ở
đây hết. Tôi có lại xin việc
tại nhiều nhà sn xuất phim nhưng
không một ai mướn tôi. Mà tiền
giắt lưng thì ít, tiêu gần cạn
rồi. Nhưng hai tuần tôi chỉ
ăn bánh và uống nước lạnh.
Đã lo lại đói nữa.
Tôi tự nhủ: 'Có lẽ mình sẽ
nguy mất, không bao giờ được
làm đào hát bóng đâu. Xét kỹ thì
mình không kinh nghiệm chưa đóng trò
lần nào, vậy chắc chỉ có nhan
sắc của mình là giúp mình được
thôi.
Tôi đi lại tấm gưng, ngó trong
đó đã thấy sự lo lắng làm
cho dung nhan tôi tiều tuỵ làm sao!
Những nét nhăn đã bắt đầu
hiện, do bàn tay tàn phá của ưu tư.
Rồi tôi tự nhủ: 'Phi thôi ngay
đi! Không được ưu tư
nữa. Chỉ có cai nhan sắc giúp ta
được việc. Vậy đừng
tàn phá nó bằng cách chuốc lấy lo
phiền'.
Ta thấy ít nguyên nhân nào phá hoại
nhan sắc một người đàn bà
mau chóng bằng ưu tư. Nó làm cho
họ già đi, tính tình hoá chua cay. Nó
huỷ dung nhan họ, làm cho hai hàm răng
nghiến chặt lại, làm cho nét nhăn
hiện lên mặt. Họ có vẻ luôn
luôn cáu kỉnh, tóc họ bạc
hoặc rụng, nước da họ sinh
ra đủ thứ mụn, nhọt,
ghẻ, lác.
Bệnh đau tim là tên sát nhân số 1
ở Mỹ. Trong chiến tranh vừa
rồi, khong một phần ba triệu người
chết trên trận địa, nhưng cũng
trong thời gian đó, bệnh đai tim
giết tới hai triệu nhân mạng,
trong số đó có một nửa đau
vì quá lo lắng và sống một đời
ồ ạt, rộn rịp quá. Phi,
chứng đau tim là một nguyên nhân chính,
khiến bác sĩ Alexis Carrel thốt ra câu
này: 'Những nhà kinh doanh không biết
thắng ưu sầu sẽ chết
sớm'.
Người da đen ở phưng nam và
người Trung hoa ít khi đau tim vì lo
lắng, nhờ họ đã nhìn đời
một cách bình tĩnh. Số bác sĩ
chết vì đau tim nhiều gấp 20
lần nông phu chết về bệnh
đó, vì các bác sĩ sống một
đời rộn rịp quá. Đó là cái
lẽ nhân nào qu nấy.
William James nói: 'Trời có thể tha
lỗi cho ta được, nhưng
bộ thần kinh của ta thì không khi nào
có thể dung thứ cho ta hết'.
Và đây là một điều ngạc
nhiên vô cùng, gần như không tin
được. tại Mỹ mỗi năm,
số người tự tử lại
nhiều hn số người chết
trong năm bệnh truyền nhiễm lan
rộng nhất.
Tại sao vậy? Chỉ tại họ 'ưu
tư' quá đó!
Khi bọn quân phiệt tàn bạo của
Trung Quốc muốn hành hạ một
tội nhân nào, họ trói kẻ bất
hạnh rồi đặt dưới
một thùng nước cứ đều
đều nhỏ giọt... từ
giọt... từ giọt... không
ngừng...ngày và đêm trên đầu
y. Sau cùng tội nhân thấy khổ
sở như búa đập vào đầu
và hoá điên. Phưng pháp đó
được Y-Pha-nho dùng trong những
buồng tra tấn và Hitler dùng trong các
trại giam.
ưu tư nào khác những giọt kia? Nó
đập, đập, đập, không
ngừng vào thần kinh ta, đủ
sức làm cho ta điên và tự tử
được.
Khi tôi còn là một đưa nhỏ nhà
quê ở Misssouri, tôi nghe người ta
tử cnh vạc dầu ở âm phủ mà
sợ quá muốn chết ngất. Nhưng
thật không ai t cnh vạc dầu ở cõi
trần này hết, cnh thê thm của
những kẻ quá ưu tư. Chẳng
hạn, nếu bạn ưu tư luôn năm
suốt tháng, thì một ngày kia bạn có
thể bị một chứng bệnh
đau đớn, ghê ghớm vô cùng,
tức là chứng đau nhói ở
ngực.
Hỡi bạn thanh niên, nếu bạn
bị chứng đó thì bạn sẽ
phi kêu trời, một tiếng kêu
trời rùng rợn như sắp
chết, không có tiếng kêu trời rùng
rợn như sắp chết, không có
tiếng kêu nào so sánh cho ngang. Nếu
đem tiếng gào của Âm ti so với
tiếng kêu trời đó chỉ là tiêng
kêu êm ái trong bài 'Thằng cuội'
của trẻ nhỏ. Bạn sẽ
tự than: 'Trời hỡi trời!'
Nếu tôi t được bệnh này thì
tôi sẽ sung sướng tuyệt
trần, thề không giờ còn lo
buồn gì nữa'. (Bạn cho tôi nói quá
ư? Xin bạn cứ hỏi vị y sĩ
thường chữa cho bạn thì
biết).
Bạn có thích sống không? Có muốn
sống lâu và khoẻ mạnh để
hưởng cái vui 'ăn ngon ngủ
kỹ làm tiên trên đời' không?. Thích
vậy, muốn vậy bạn cứ theo
đúng lời khuyên sau đây, cũng
lại của bác sĩ Alexis Carrel
nữa. Ông nói: 'Kẻ nào giữ
được tâm hồn bình tĩnh
giữa những đô thị huyên náo
thời nay kẻ đó sẽ không
bị bệnh thần kinh'.
Bạn có giữ được như
vậy chăng? Nếu bạn là một
người bình thường, vo beenhj,
bạn có thẻ tr lời. 'Có'. Chắc
chắn ta có những năng lực
tiềm tàng mà có lẽ chưa bao
giờ dùng tới. ÔNg Thoreo đã nói
trong cuốn 'Walden' bất hủ của
ông: 'Tôi không thấy cái gì làm tôi
phần khởi bằng kh năng nâng cao
đời sống của cô tôi do sự
gắng sức có ý thức. Khi ta tự
tin, tiến theo con đường đựp
đẽ tự vạch ra và gắng
sức sống theo đời sống
đã phác hoạ trong đầu, thì ta có
thể thành công một cách rất không
ngờ'.
Chắc chắn nhiều độc gi cũng
đầy nghị lực và năng
lực tiềm tàng như cô Olga K Jarvey
ở Coeur d'Alène. Một hôm, trong
những trường hợp bi đát
nhất, cô nhận thấy cố có
thể diệt được ưu tư.
Vậy thì tôi tin chắc bạn và tôi,
chúng ta có thể diệt được
ưu tư được, nếu chúng
ta theo những chân lý cổ truyền mà
tôi bàn tới trong cuốn này. Câu
chuyện của cô
Olga K Jarvey chép lại cho tôi như
vậy: 'Tám năm rưỡi trước
tôi bị chứng ung thư, nó suýt làm tôi
chết lần mòn, vo cùng đau đớn.
Những y sĩ tài giỏi nhất trong nước,
tức là các bác sĩ ở dưỡng
đường như ở một con
đường cùng, đứng trước
cửa Âm ti mở sẵn. Trong cn thất
vọng tôi dùng điện thoại kêu
vị bác sĩ dưng chữa cho tôi
đến để mà rên la, mà kể
lể nỗi thất vọng đang
chiếm cứ lòng tôi. Song bác sĩ nóng
ny ngắt lời ngay: 'Cái gì vậy, cô
Olga K Jarvey?'Phi can đm lên chớ! Nếu
cứ la hét như vậy thì mau chết
lắm. Bệnh của cô rất nguy
hiểm thiệt đấy. Nhưng phi
can đm chống với nó... Đừng
ưu phiền nữa mà kiếm việc
gì làm cho khuây kho đi'. Ngay lúc đó, tôi
nắm chặt tay, thề một cách qu
quyết đến nỗi mong tay đâm
sâu vào da thịt, đến nỗi
thấy lạnh mình, mồ hôi chy ròng ròng
theo sống lưng. Tôi thề rằng:
'Ta không ưu phiền nữa! Ta không rên
là nữa! Và nếu tinh thần thắng
được thể chất, ta sẽ
sống'.
Bệnh nặng không thể dùng quang
chất được, phi cho chạy
tuyến vào ung thư luôn trong 30 ngày,
mỗi ngày mười phút rưỡi.
Riêng bệnh của tôi các bác sĩ
đã cho chạy quang tuyến trong 49 ngày,
mỗi ngày 14 phút rưỡi. Nhưng
mặc dầu xưng tôi gần lòi
khỏi da, như những mỏm đá
trên sườn đồi, mặc dù chân
tôi nặng như chì, tôi cũng
chẳng hề ưu phiền! Tôi không khóc
một tiếng, tôi cứ mỉm cười!
Phi, tôi bắt buộc phi mỉm cười.
'Tôi không điên tới mức tin
rằng chỉ mỉm cười thôi mà
hết được bệnh nội ung,
song tôi quyết tin rằng tinh thần
khoan khoái giúp c thể thắng được
bệnh. Dù sao đi nữ lần dó tôi
đã tìm thấy một phép trong
những phép mầu nhiệm để
trị bệnh nội ung. Mấy năm
gần đây, tôi mạnh khỏe khác thường
chính là nhờ những lời nhắc
nhở của Bác sĩ Mc. Caffery. 'Hãy can
đm chống đối với bệnh;
đừng ưu phiền nữ; làm
việc gì cho khuây kho đi!'.
Để kết luận, tôi muốn chép
lại câu của bác sĩ Alexis Carrel
'Những nhà kinh doanh không biết
thắng ưu sầu sẽ chết
sớm'.
Bọn tín đồ cuồng nhiệt
của giáo chủ Mohammed thường xâm
trên ngực những câu th trong kinh thánh
Koran. Tôi cũng muốn các vị độc
gi cuốn này xâm lên ngực câu'Những
nhà kinh doanh không biết thắng ưu
sầu sẽ chết sớm'.
à mà biết đâu được? Bác sĩ
Alexis Carrel muốn nói c tới bạn
đó không chừng!
Giết ta bằng cái ưu sầu
'Những nhà kinh doanh không biết
thắng ưu sầu sẽ chết
sớm'.
Bác sĩ Alexis Carrel
Mấy năm trước, một
buổi sáng, một ông hàng xóm gõ
cửa nhà tôi phi đi chủng đậu
ngay. Ông là một trong số hàng ngàn người
tình nguyện đi gõ cửa từng nhà
ở khắp châu thành Nữu Ước
để nhắc nhở dân chúng.
Những người sợ sệt
nối đuôi nhau hàng giờ tại nhà
thưng, sở chữa lửa, sở công
an và c trong những xí nghiệp để
được chủng đậu. Hn
2.000 bác sĩ và nữ điều dưỡng
làm việc náo nhiệt ngày đêm.
Tại sao lại có sự kích thích đó?
là vì khi ấy châu thành Nữu ước
có tám người lên đậu và hai người
chết. Hai người chết trong dân
số gần tám triệu người!.
Tôi đã sống trên 37 năm ở
Nữu ước, vậy mà vẫn chưa
có một người nào lại gõ
cửa bo tôi phi để phòng chứng
ưu sầu, một chứng do cm xúc sinh
ra mà trong 37 năm qua đã giết người
một vạn lần nhiều hn bệnh
đậu!
Không có một người nào lại gõ
cửa cho tôi hay rằng hiện trong nước
Mỹ, cứ mười người có
một người bị chứng
thần kinh suy nhược mà đại
đa số những kẻ đó đều
do ưu tư và cm xúc bất an mà sanh
bệnh. Cho nên tôi phi viết chưng này
để gõ cửa bạn và xin bạn
đề phòng.
Bác sĩ Alexis Carrel, người
được gii thưởng Nobel
về y học, đã nói: 'Những nhà
kinh doanh không biết thắng ưu
sầu sẽ chết sớm'. Mà các bà
nội trợ cũng vậy, các ông thú
y cũng vậy, các bà thợ nề cũng
vậy.
Mấy năm trước nhân dịp
nghỉ, tôi đánh xe dạo vùng Texas và
New Mexico với bác sĩ O.F.Gobe, một
trong những vị trưởng ban y
tế sở Ho xa Santa Fé. Chúng tôi bàn
về những tai hại của lo
lắng và bác sĩ nói: 'By chục
phần trăm bệnh nhân đi tìm bác
sĩ đều có thể tự chữa
hết bệnh nếu bỏ được
nỗi lo lắng và sợ sệt. ấy
xin đừng nghĩ rằng tôi cho
bệnh của họ là bệnh tưởng!
Họ có bệnh thiệt như những
người đai nặng vậy. Mà có
khi bệnh của họ còn nguy hiểm h
nhiều nữa, chẳng hạn như
bị thần kinh suy nhược nà trúng
thực, có ung thư trong bao tử, đau
tim, mất ngủ, nhức đầu và
bị chứng tê liệt.
Những bệnh đó không phi là tưởng
tượng, tôi biết rõ vậy, vì chính
toi đã bị ung thư bao tử trong 12
năm trời.
Sợ sinh ra lo. Lo làm cho thần kinh căng
thẳng, ta cáu kỉnh hại cho
những dy thần kinh trong bao tử, làm
cho dịch vị biến chất đi và
thường sinh chứng vị ung'.
Bác sĩ Joseph F. Montagne, tác gi cuốn:
'Bệnh đau bao tử do thần kinh' cũng
nói đại khái như vậy. Ông bo:
'không phi thức ăn làm cho tôi có ung thư
trong bao tử mà nguyên nhân chính là cái
ưu tư nó cắn rứt tôi'.
Bác sĩ W.C.Alvarez ở dưỡng
đường Mayo thì nói: 'Những ung
thư trong bao tử sưng thêm hay tiêu
bớt đi là tuỳ sự mệt
nhọc của bộ thần kinh tăng
hay gim'.
Một cuộc nghiên cứu 15.000 người
đau bao tử ở nhà thưng Mayo
đã chứng thực điều
ấy. Trong năm người thì bốn
người c thể không có gì khác thường
hết. Sợ, lo, oán, ghét, tính vô cùng ích
kỷ, không biết thích nghi với hoàn
cnh, những cái đó đôi khi là nguyên
nhân của bệnh đau bao tử và
chứng vị ung. Bệnh thứ hai này
có thể giết bạn được.
Theo tờ báo Life nó đứng hạng
thứ mười trong những bệnh
nguy hiểm nhất.
Mới rồi toio có giao dịch bằng
thư từ với bác sĩ Harrlod
C.Habien ở dưỡng đường
Mayo. Trong kỳ hội họp thường
niên của các y sĩ và các nhà gii
phẫu, ông ddược đọc
một tờ thông điệp về công
cuộc nghiên cứu các chứng bệnh
của 176vụ chỉ huy các xí
nghiệp. Sau khi cho cử toạ biết
rằng tuổi trung bình của họ là
44 năm, ba tháng, ông nói non một
phần ba các vị chỉ huy ấy
mắc một trong ba chứng bệnh:
đau tim, có ung thư trong bao tử và
mạch máu căng quá. Những bệnh
đó là những bệnh đặc
biệt của hạng người luôn
luôn sống một đời gay go,
ồn ào, rộn rịp. Bạn thử
nghĩ coi: một phần ba những nhà
chỉ huy các xí nghiệp đã tự
huỷ hoại thân thể vì các
chứng đau tim, vị ung và mạch máu
căng lên khi chưa đầy 45
tuổi. Sự thành công của họ
đã phi tr với một giá đắt
quá. Mà chưa chắc gì họ đã thành
công. ở thử hỏi, ta có thể nói
được là thành công khi ta làm ăm
phát đạt, nhưng lại mắc
chứng đau tim hoặc vị ung chăng?
Có ích gì cho ta không, nếu ta chiếm
được c phú nguyên của thế
giới mà phi mất sức khoẻ? Dù
ta giàu có đến đâu đi nữa
thì mỗi ngày cũng chỉ ăn có ba
bữa và đêm ngủ một giường.
Nói cho rộng thì người chỉ huy
các xí nghiệp quyền hành lớn, nhưng
có hn gì anh đào đất không? Có
lẽ còn kém nữa, vì anh đào đất
thường được ngủ say hn
họ, ăn ngon miệng hn họ.
Thiệt tình tôi muốn làm anh thợ
giặt ở Alabana ôm cây đờn
'banjo' mà khy tưng tưng còn hn làm
chủ một công ty xe lửa hoặc
một công ty thuốc hút để
tới 45 tuổi, sức khỏe bị
huỷ hoại đến nỗi tiều
tuỵ thân hình.
Nói tới thuốc hút, tôi lại
nhớ tới một nhà sn xuất
thuốc nổi danh nhất thế
giới, mi chết vì bịnh đau tim
trong khi ông ta đi nghỉ vài ngày
giữa một khu rừng ở Canada. Ông
ta lượm hằng triệu bạc mà
chết, chết hồi có 61 tuổi.
Chắc chắn ông đã đem cái
thời gian khổ hạnh trong đời
ông để đổi lấu cái mà ông
ta gọi là 'thành công trong sự làm
ăn' đó.
Theo tôi nhà sn xuất thuốc đó chưa
thành công bằng nửa thân phụ tôi,
một nông phu ở Missouri, mất
hồi 98 tuổi, gia sn không có tới
một đồng.
Các y sĩ ở Mayo nói rằng khi dùng
kiếng hiển vi để xem xét dây
thần kinh của những người
chết vì đau bệnh này thì thấy
thần kinh của jack Dempsey, một tay quán
quân về quyền thuật. Bệnh
của họ không do thần kinh suy nhược
mà do những cm xúc như ưu tư, lo
lắng, sợ sệt, thất vọng.
Platon nói: 'Các y sĩ có một lỗi
lầm lớn nhất là họ chỉ ráng
trị thân thể, không nghĩ tới
trị tinh thần mà thân thể và tinh
thần là một, không thể trị riêng
được'.
Phi đợi 23 thế kỷ sau, y
học mới chịu xác nhận sự
quan trọng ấy. Chúng ta đưng phát
triển một phưng pháp trị
liệu mới mẻ là phưng pháp
trị c c thể lẫn thần kinh. Công
việc đó lúc này quan trọng vì y
học đã trị được
nhiều bệnh do vi trùng như bệnh
đậu mùa, bệnh dịch t, bệnh
sốt rét và hàng chục bệnh khác
đã giết hàng triệu mạng người.
Nhưng y học vẫn chưa trị
được những bệnh tinh
thần, không do vi trùng mà do những cm xúc
như lo lắng, sợ sệt, oán ghét,
thất vọng, những bệnh mỗi
ngày một tăng với tốc độ
rất gớm ghê.
Các bác sĩ nói rằng hiện nay
cứ 20 người Mỹ có một người
phi nằm nhà thưng điên trong một
thời gian không kỳ hạn. Và khi
tổng động viên, hồi chiến
tranh vừa rồi, cứ năm thanh niên
thì phi loại đi một vì thần
kinh có bệnh hoặc suy nhược.
Vậy nguyên nhân của chứng thần
kinh thác loạn là gì? Không ai biết
được đủ hết. Nhưng
chắc chắn là trong nhiều trường
hợp, sợ sệt và lo lắng là hai
nguyên nhân chính. Những người lo
lắng, mệt mỏi đều không
biết thích nghi với những thực
sự chua chát của đời, cứ
muốn sống cách biệt hẳn
với người xung quanh và tự giam
mình trong một thế giới tưởng
tượng để khỏi phi ưu
phiền.
Như tôi đã nói, tôi luôn để trên
bàn cuốn 'Quẳng gánh lo đi để
được khoẻ mạnh' của bác
sĩ Edward Podalsky.
Dưới đây là nhan đề vài chưng
trong cuốn ấy:
Lo lắng có hai cho tim ra sao?
Mạch máu căng là do lo lắng quá
độ
Chứng phong thấp có thể vì lo
lắng mà phát sinh.
Hãy thưng hại bao tử mà bớt lo
đi
Lo lắng quá có thể sinh ra chứng trúng
hàn.
Những lo lắng ảnh hưởng
tới hạch giáp trạng tuyến ra
sao?
Chứng đường sí (nước
tiểu có nhiều đường)
của những người lo lắng quá.
Một cuốn sách trứ danh khá, nghiên
cứu về lo lắng là cuốn 'Loài
người tự hại mình' của bác
sĩ Karl Menninget ở dưỡng
đường Mayo, trị bệnh
thần kinh. Cuốn đó cho biết
nếu ta để những cm xúc phá
hoại xâm chiếm đời ta thì
sẽ làm hại thân ta đến
mức nào. Rồi đưa cho người
quen đọc. Sách giá bốn mỹ kim.
Tôi dám nói quyết không có số vốn
nào bỏ ra mà có thể mang lợi
về cho bạn bằng số tiền
ấy.
Kẻ mạnh khoẻ nhứt mà ưu
phiền thì cũng hoá đau được,
đại tướng Grant thấy như
vậy trong những ngày sắp tàn
cuộc Nam Bắc phân tranh. Đây là câu
chuyện: Đại tướng bao vây
đồn Richsmond đã 9 tháng. Quân đội
của đại tướng Lee ở
trong đồn, đói, rách, bị đánh
bại. Từng bộ đội một
đã đào ngũ. Còn những toán binh
khác thì họp nhau lại trong trại vi
bố mà tụng kinh, la, khóc, me hong,
một triệu chứng tan rã hoàn toàn.
Sau đó họ đốt những kho bông
và châu thành, trong khi những ngọn
lửa giữa đêm bốc ngụt
trời. Đại tướng Grant
vội vàn ho tốc đeo đuổi,
bao vây hai bên sườn quân địch,
mà kỵ binh do Sheridan cầm đầu
thì đón phá đường rầy và
cướp những toa xe lưng thực
của đối phưng.
Chỉ huy trận đó, Đại tướng
Grant nhức đầu kịch liệt,
mắt mờ gần như đui,
tới nỗi phi đi sau quân đội
rồi té xỉu và đành ngừng
lại ở một trại ruộng. Ông
chép trong tập kú ức của ông:
'Suốt đêm đó tôi chân trong nước
nóng và hột ci, lại đắp
hột ci trên cổ tay, trên gáy, mong đến
sáng sẽ hết nhức đầu'.
Sáng hôm sau ông tỉnh táo ngay, nhưng không
phi nhờ ở hột ci mà nhờ ở
bức th xin đầu hàng của Đại
tướng Lee do một kỵ binh phi
ngựa mang tới.
Ông viết: 'Khi võ quan kia lại gần tôi,
tôi còn nhức đầu như búa
bổ, nhưng đọc xong bức thư,
tôi khỏi liền'.
Như vậy chắc chắn Đạo
tướng đau chỉ vì lo nghĩ, cm
xúc mạnh quá, thần kinh kích thích quá
nên khi hết lo, lại vững bụng,
vì công việc đã hoàn thành ông bình
phục lại ngay.
Bảy mươi năm sau, Henry Morgenthau,
giám đốc quốc khố trong
nội các của Tổng thống Franklin
D. Roosevelt, ưu tư tới nỗi đau
rồi bất tỉnh. Ông chép trong
nhật ký rằng ông lo lắng ghê
gớm khi Tổng thống mua trong một
ngày 4.400.000 thùng lúa, khiến giá lúa phi tăng
lên. Việc đó làm cho ông mê man
bất tỉnh
|
4- Làm sao phân tích và giải quyết
vấn đề
Tại sao? Ai đó? ở đâu?
Cách nào? Chi đó? Khi nào? Biệt danh?
Sáu người giúp việc trung thành?
Dạy tôi hiểu được mọi
nhành gần xa.
Rudyard Kipling (1856-1936).
Định thức thần hiệu
của H.Carrrier ở chương II
phần nhất có thể giải
quyết được hết thấy
những vấn đề rắc rối
không? Tất nhiên là không.
Vậy thì phải làm sao? Phải tập phân
tích theo ba giai đoạn căn bản
sau đây:
1. Vạch rõ những sự kiện
2. Phân tích những sự kiện
3. Quyết định, rồi hành động
theo quy định đó.
Thì cố nhiên rồi, phải không
bạn? Vâng, Aristote
từ xưa đã dạy ta vậy và cũng
đã dùng cách ấy. Bạn và tôi, chúng
ta cũng phi dùng cách ấy nữa,
nếu chúng ta muốn gii quyết
những việc rắc rối nó giày vò
ta ngày đêm, đổi cuộc đời
của ta thành địa ngục.
Chúng ta hãy xét định lệ thứ
nhất đã: Vạch rõ những sự
kiện. Tại sao việc đó lại
quan trọng như vậy? Vì thiếu
sự kiện thì không sao gỉai
quyết vấn đề một cách sáng
suốt được. Thiếu nó chúng
ta chỉ còn có thể quay cuồng trong
sự hỗn độn mà thôi. Đó là
ý riêng của tôi chăng?. Không đâu,
đó là ý của ông Herbert E. Hawkes,
hồi sinh tiền, khoảng 20 năm
về trước, làm trưởng khoa
Đại học Columbia. Ông đã giúp
200. 000 sinh viên gii quyết vấn đề
rắc rối; và ông nói với tôi:
'Sự hỗn độn là nguyên nhân chính
của sự lo lắng'. Ông giảng: 'Phân
nửa những nỗi lo lắng của
loài người là do người ta
cứ gắng tìm một quyết định
trước khi thu thập đủ
những sự kiện để làm
nền tng cho quyết định đó.
Ví dụ nếu tôi có vấn đề
phi gii quyết trước ba giờ
chiều thứ ba sau, thì tôi nhất
định không quyết định gì
hết trước thứ ba. Trong
thời gian ấy, tôi chuyên tâm thu
thập hết các sự kiện quan
tới vấn đề. Tôi vẫn
ngủ kỹ như thường. Chỉ
chuyên tâm kiếm sự kiện thôi. Và
ngày thứ ba sau, nếu tôi đã thu
nhập được đủ các
sự kiện thì gii pháp tự nó
tới, khỏi phi kiếm'.
Tôi hỏi: ' Có phi ông muốn nói
rằng ông đã hoàn toàn trừ hết
được nỗi lo lắng không? 'Ông
đáp: 'Tôi tưởng có thể chân thành
nói rằng đời tôi bây giờ
gần như tuyệt được
hết nỗi lo rồi. Tôi nhận
thấy rằng nếu dùng hết
thời gian vào việc tìm tòi những
sự kiện một cách vô tư khách
quan, thì khi nhận thức những
sự kiện ấy, ưu tư sẽ
tan dần đi'.
Xin bạn cho tôi nhắc lại câu đó:
'Nếu dùng hết thời gian vào
việc tìm tòi những sự kiện
một cách vô tư khách quan, thì khi
nhận thức những sự kiện
ấy, ưu tư sẽ tan dần đi'.
Vậy mà phần đông chúng ta hành
động ra sao? Ông Thomas Edison đã
rất nghiêm trang nói rằng: 'Loài người
tìm đủ cách để tránh sao cho
khỏi mất công nghĩ - cho nên chúng
ta dù có chịu hành động như
những con chó săn chim, nghĩa là
chỉ chạy theo những sự
kiện nào chống đỡ cho ý
của ta đã nghĩ rồi, và bỏ
quên những sự kiện khác đi! Chúng
ta chỉ dùng những sự kiện nào
biện hộ cho hành động của
chúng ta, những sự kiện nào
hợp với nghĩa, ý muốn của
ta và bào chữa cho những định
kiến của ta thôi.
Y như lời ông Andé Maurois đã nói:
'Cái gì hợp với sở thích của
ta thì ta cho là đúng. Không hợp
với sở thích của ta thì ta nổi
khùng lên'. Như vậy có khó giải
quyết được các vấn đề
cũng là dĩ nhiên'. Có khác chi gii
một bài toán đệ nhị cấp
(1) mà nhất định theo gi thiết
hai với hai là năm không? Mà trên đời
có biết bao người cứ nhất
định nói rằng hai với hai là năm-
có khi là 500 nữa, rồi làm cho đời
sống của họ và của người
khác thành một cảnh địa ngục.
Vậy ta phi làm sao? Ta phải giữ
đừng cho cảm xúc xen vô những
suy nghĩ của ta, nghĩa là như ông
Hawwkes đã nói, phải thu thập
những sự kiện một cách 'vô tư
khách quan'.
Việc đó không phi dễ, vì trong khi
chúng ta lo lắng, cm xúc thường lên
tới cao độ. Nhưng tôi đã
kiếm được hai cái nầy nó
giúp tôi đứng dang ra xa vấn đề
của tôi, để xét những sự
kiện một cách sáng suốt và khách
quan.
1-Khi ráng kiếm sự kiện, tôi làm như
thu thập nó không phải cho tôi mà cho
một người khác. Cách đó giúp tôi
nhận xét một cách lạnh lùng, khách
quan và diệt được hết
những cảm xúc.
2-Trong khi thu thập những sự
kiện về một vấn rắc
rối, thỉnh thoảng tôi làm bộ
như một luật sự bênh vực
cho quan điểm ngược với quan
điểm của tôi. Nói ách khác là tôi
ráng thu thập đủ những sự
kiện chống lại tôi, trái với
ý muốn của tôi. Rồi tôi chép
lại cả những lý lẽ thuận
lẫn những lý lẽ nghịch, và tôi
thường thường nhận
thấy rằng sự thực ở vào
một ni nào đó, khong giữa hai thái
cực ấy.
Tôi xin tóm lại. bạn cũng vậy,
tôi cũng vậy, cả ông Einstein, cả
Toà án tố cao của Huê Kỳ nữa,
không ai có đủ thông minh để tìm
một quyết định sáng suốt
về bất kỳ một vấn đề
nào, nếu trước hết không
chịu thu thập đủ những
sự kiện đã. Ông Thomas Edison
hiểu điều đó, nên khi
chết, ông để lại 2.500
cuốn sổ nhỏ, trong đó ghi đầy
những sự kiện về mọi
vấn đề mà hồi sinh tiền ông
đã gii quyết.
Vậy định lệ thứ nhất
là: thu nhập những sự kiện. Hãy
bắt chước khoa trưởng
Hawkes, đừng cố giải quyết
những nỗi khó khắn trước
khi đã thu thập đủ sự
kiện một cách vô tư.
Tuy vậy, thu thập hết những
sự kiện ở trên trái đất
nầy cũng không ích lợi gì cho ta
nếu ta không phân tích và giải đoán
nó.
Tôi đã trả một giá rất
mắc bài học nầy: phi viết
những sự kiện đó lên giấy
rồi mới phân tích chúng một cách
dễ dàng được. Chỉ một
việc chép sự kiện lên giấy và
đặt vấn đề một cách rõ
ràng cũng đã giúp ta đi được
một quãng đường dài tới
một sự quyết định hợp
lý rồi. Đúng như Charles Keteling
đã nói: 'Khéo đặt vấn đề
là đã gii quyết được
một nửa'.
Tôi xin lấy thực tế chứng mình
điều đó. Người Trung Hoa nói
một bức vẽ giá trị hơn
một vạn tiếng nói. Vậy tôi
thử vẽ cho bạn thấy một người
đã thực hành phưng pháp đó ra
sao. ấy là ông Galen Litchfield, một trong
những nhà doanh nghiệp thành công
nhất ở miền Tây Mỹ. Tôi quen
ông ta từ lâu. Năm 1942, ông đang
ở Trung Hoa khi quân Nhật chiếm Thượng
Hải. Ông kể cho tôi nghe chuyện sau
này: 'ít lâu sau khi Nhật chiếm Trân Châu
Cng, chúng ùa vào Thượng Hải.
Hồi ấy tôi là giám đốc
một công ty bảo hiểm nhân mạng
ở đó. Chúng phái một 'thanh toán viên
nhà binh' lại hãng tôi- viên này là
một đô đốc- và ra lệnh cho
tôi giúp đỡ võ quan đó trong khi
thanh toán tài sản của công ty. Tôi không
có quyền từ chối. Tôi phi hợp
tác nếu không.... mà 'nếu không' nghĩa
là chết chắc chắn. Không còn cách
nào khác, tôi tỏ vẻ làm đúng
chỉ thị của chúng. Nhưng tôi không
biện vào bảng thống kê một
số bảo đảm đáng giá 750.000
mỹ kim và tôi nghĩ những bảo
hiểm ấy thuộc về chi nhánh
ở Hồng Kông, không liên quan gì
tới tài sản của hãng ở Thượng
Hải. Mặc dù vậy tôi cũng lo
rằng nếu tụi Nhật tìm ra thì tôi
sẽ khốn đốn với chúng
chớ chẳng chi. Và qúa thiệt chúng
thấy liền.
Khi chúng khám phá ra điều ấy thì tôi
không có mặt tại phòng giấy. Chúng
gặp người đầu phòng
kế toán của tôi. Người này
kể lại với tôi rằng đô
đốc nổi tam bành lên, giậm chân
chửi thề, bo tôi là quân ăm
trộm, quân phản nghịch, rằng tôi
đã cả gan khiêu khích quân đội Thiên
Hoàng! Tôi hiểu như vậy nghĩa là
gì rồi. Tôi hiểu như vậy nghĩa
là gì rồi. Tôi sẽ bị giam vô 'nhà
cầu' của chúng. Nhà cầu! Tức là
phòng hành tội của hiến binh
Nhật Bổn! Bạn bè của tôi có
nhiều người chẳng thừa
tự tử chứ không chịu bị
giam trong khám đó. Còn những bạn khác
thì chết ở đấy sau mười
ngày tra tấn. Mà bây giờ chúng đã
sắp nhốt tôi vô cái ngục hiểm
độc kia!
|
5- Làm sao giảm
nỗi lo lắng
Làm sao trừ được 50
phần trăm nỗi lo lắng về công
việc làm ăn của chúng ta?
Nếu bạn là một nhà doanh
nghiệp, chắc bạn nghĩ: 'Nhan
đề chương này thiệt là
lố bịch. Ta làm ăn đã 19 năm
nay. Nếu có người nào biết cách
trừ được 50 phần trăm
nỗi lo lắng về công việc làm
ăn, thì người đó tất phi là
ta chớ còn ai nữa. Bây giờ lại
có kẻ muốn dạy khôn ta, có vô lý
hay không?
Đúng lắm. Mấy năm trước,
giá có đọc một nhan đề như
vậy, tôi cũng nghĩ y như
bạn. Nhan đề đó hứa
hẹn nhiều quá. Hứa hẹn
suống có tốn gì đâu?
Chúng ta nên thành thực: Có thể
rằng tôi giúp bạn tẩy được
50% nỗi lo lắng về công việc và
làm ăn của bạn. Không ai làm
được việc đó hết,
trừ phi chính bạn, Nhưng điều
mà tôi có thể làm được là
chỉ cho bạn biết những người
khác trừ 50% nỗi lo của họ ra
sao- còn bạn phi tự trừ nỗi lo
của bạn!
Chắc bạn nhớ rằng ở
một chưng trên tôi đã dẫn
một câu danh ngôn của bác sĩ Alexis
Carrel: Những nhà kinh doanh không biết
thắng ưu sầu sẽ chết
sớm'.
Vì ưu sầu tai hại như vậy,
cho nên nếu tôi giúp bạn trừ
được 10% nỗi ưu sầu
của bạn thôi, bạn cũng đã
thích rồi chứ?... Thích... Được
lắm! Vaayjd dể tôi kể cho bạn
nghe chuyện một nhà kinh doanh đã
trẻ nổi 50% ưu tư của ông
ta mà lại còn tiết kiệm được
75 % thời giờ bó phí trong các cuộc
hội nghị để gii quyết
vấn đề làm ăn nữa.
Tôi không kể chuyện ông 'X', ông 'Y' nào,
hoặc 'một người quen ở
Ohio' cho bạn nghe đâu. Những
chuyện như vậy hàm hồ quá,
bạn không kiểm tra được
hết.
Chuyện tôi sắp kể là chuyện
một người có thiệt, ông Leosn
Shimkin, vừa có cổ phần lại
vừa làm giám đốc một nhà
xuất bn lâu đời nhất tại
Mỹ: Nhà xuất bn Simon Schuster ở
Nữu ước.
Ông Léon Shimkin kể chuyện mình như
sau này: 'Trong 15 năm, tôi phi bỏ
một nửa thời gian làm việc
để họp hội nghị và bàn cãi
về các vấn đề làm ăn. Chúng
tôi hỏi nhau: Nên làm thế nầy? Chúng
tôi cáu kỉnh ngồi không yên trong
ghế? đi đi lại lại trong phòng,
bàn cãi trong vòng lẩn quẩn. Tối
đến, tôi mệt lắm, và tin
rằng không có cách nào khác hết. Tôi
theo cách đó 15 năm và không bao giờ
nghĩ rằng có thể kiếm cách khác
hiệu qu hn được. Nếu lúc
đó có ai bo rằng tôi có thể
tiết kiệm ba phần tư thời
gian dùng trong những hội nghị quay
cuồng ấy, và ba phần tư
nỗi mệt nhọc về tinh thần
của tôi thì chắc tôi đã cho người
đó là quá lạc quan, hi điên và không
thực tế chút nào cả. ấy
vậy mà sau này tôi đã kiếm
được một phưng pháp
kết qủa đúng như thế. Tôi
đã dùng phưng pháp đó tám năm.
Kết quả lạ lùng về năng
lực cũng như về sức
khoẻ và hạnh phúc gia đình của
tôi.
'Có vẻ một trò ảo thuật- nhưng
cũng như các trò ảo thuật,
một khi bạn đã biết, thì
thấy nó vô cùng gỉan dị'.
'Đây là bí quyết đó: Trước
hết tôi bỏ hẳn cách làm việc
mà tôi đã theo 15 năm rồi. Trước
kia chúng tôi vào phòng hội nghị, lo
lắng, kể lể hết những chõ
bất mãn, thất bại trong công
việc làm ăn để rồi sau cùng
hỏi nhau: 'Làm sao bây giờ?' Tôi bỏ
hẳn lõi đó đi, lập ra một
một quy tắc mới: 'Hội viên nào
muốn đưa một vấn đề
ra bàn cãi, trước hết phi tho và trình
tờ chép những câu trả lời cho
bốn câu hỏi này:
Câu hỏi thứ nhất: Nỗi khó
khăn ra sao?
(Trước kia tôi thường phí
một hoặc hai giờ để lo
lắng than thở mà chẳng ai biết
được một cách rõ ràng vấn
đề đó khó khăn ở chỗ
nào. Chúng tôi thường phí sức, bàn
cãi về nỗi lo của chúng tôi mà không
bao giờ chịu khó chép rõ nó lên
giấy).
Câu hỏi thứ nhì: Nguyên nhân
nỗi khó khăn ở đâu?
(Nhớ lại hồi trước mà tôi
hong: tôi phí biết bao thời giờ và
những bàn cãi, lo lắng mà không bao
giờ chịu tìm rõ nguyên nhân đầu
tiên của nỗi khó khăn hết).
Câu thứ ba: Có những gỉai pháp nào?
(Hồi trước, mỗi hội viên
đề nghị một gii pháp và
một hội viên khác chỉ trích gii pháp
đó. Ai nấy nổi nóng lên, rồi
ra ngoài dầu đề, rốt cuộc
không ai nghi lại những gii pháp có
thể theo được c).
Câu hỏi thứ tư: Bạn đề
nghị giải pháp nào!
(Một trong bốn hội viên thường
phí hàng giờ để lo lắng quay
cuồng về một tình thế nào
đó, không bao giờ chịu nghĩ
về tất c những gii pháp có thẻ
đưa ra được và cũng không
bao giờ chịu ghi lại: Đây, theo
ý tôi, gii pháp nầy hn hết).
Bây giờ, các hội viên của tôi
rất ít khi đem những nỗi khó khăn
ra bàn với tôi lắm. Tại sao? Vì
muốn tr lời bốn câu hỏi
ấy họ phi thu thập đủ các
sự kieenjv à suy nghĩ kỹ về
vấn đề. Và sau khi làm những công
việc ấy rôi, họ thấy trong
bốn trường hợp có tới ba
trường hợp họ khỏi phi
hỏi ý tôi nữa, vì gii pháp hỏi ý
tôi, thì trước kia bàn cãi mất ba
giờ, nay cũng chỉ mất một
giờ thôi. Vì chúng tôi tuần tự
theo một con đường hợp lý
để tới một kết qu hữu
lý. Vì thế trong hãng Simmon hiện nay chúng
tôi phí rất ít thời giờ để
lo lắng và bàn tán về những
chỗ hư hỏng, s sót, mà hành động
rất nhiều để ci thiện công
việc.
Bạn tôi, ông Frank Bettger, nhân viên
một công ty bo hiểm quan trọng
nhất ở Mỹ nói với tôi
rằng ông không những diệt bớt
được ưu tư về công
việc của ông mà còn tăng số
lời lên gấp đôi, nhờ một
phưng pháp tưng tự. Ông nói:
'Hồi xưa, khi mới giúp việc cho
công ty bo hiểm, tôi vô cùng hăng hái và
yêu nghề. Rồi lần là tôi thất
vọng đến nỗi khinh nghề và
có ý giải nghệ. Mà có lẽ tôi
đã gii nghệ rồi, nếu một
buổi sáng kia tôi không ngồi suy nghĩ,
ráng kiếm nguyên nhân nỗi thất
vọng của tôi.
1- Trước tiên tôi tự hỏi: 'Nguyên
nhân thất vọng ở đâu? ở
chỗ kiếm được ít huê
hồng quá, không xứng với công
vất v đi chào khách. Trong khi đi chào
khách, công việc gì cũng dễ
hết, trừ lúc khách ký hợp đồng.
Lúc đó thiệt chán ngắt, hoặc
'Thôi để lần sau gặp ông
sẽ tính lại'. Chính là công toi, chào
khách năm lần bẩy lượt như
vậy làm cho tôi thất vọng.
2-Rồi tự hỏi: 'Có những
gỉai pháp nào?'Muốn trả lời câu
đó, tôi phải tìm tòi sự kiện,
tài liệu. Tôi bèn mở cuốn sổ
tay của tôi ra và xem xét những con
số trong 12 tháng qua.
Và tôi tìm thấy một điều làm
tôi ngạc nhiên vô cùng là 70% những khách
tôi mời được, đều
nhận lời ngay từ đầu tôi
lại thăm. Thực rõ ràng như
mực đen trên giấy trắng. Còn 23
phần trăm nữa nhận lời
trong làn thứ nhì. Chỉ có 7 % nhận
lời trong những lần mới
thứ ba, thứ tư, thứ năm... Mà
chính 7 phần trăm đó làm cho tôi
cứ mệt nhọc, bực tức
mất thời gian. Nói một cách khác thì
tôi đã phí 50% cái thời gian làm
viẹc để lượm được
một kết qu rất nhỏ là 7 %.
3. Vậy thì làm sao? Không còn phải suy
nghĩ gì cả. Tôi gỉai quyết
tức thì: Không mời ai tới huê
hồng nữa và để thời gian
đó kiếm mối khác. Kết qu không
ngờ. Chỉ trong một thời gian
ngắn, tôi làm tăng số huê hồng
lên gần gấp đôi.
Như tôi đã nói, ông Frank Bettger
hiện nay là một nhân viên công ty bo
hiểm, được nhiều người
biết nhất ở Mỹ.
Ông giúp việc cho công ty Fidelity ở
Philadephie và mỗi năm ký được
một triệu mỹ kim hợp đồng
bo hiểm.
Vậy mà hồi trước có lần
ông tính giải nghệ, chịu nhận
là thất bại, cho đến khi ông phân
tích được nỗi khó khăn
thẳng tiến trên đường thành
công.
Vậy sao bạn không dùng bốn câu
hỏi của ông để gii quyết
nỗi khó khăn trong việc làm ăn
của bạn? Nó sẽ giúp bạn
trừ được 50% nỗi lo.
Bạn thử xem được không nào?
Tôi xin nhắc lại bốn câu hỏi
ấy:
1-Nỗi khó khăn ra sao?
2-Nguyên nhân ở đâu?
3-Có cách nào gỉai quyết được?
4-Gỉai pháp nào hơn cả?
|
6- Ðừng ngồi
không
|
Chín lời
khuyên
Chín lời khuyên để đọc
cuốn sách này cho có lợi nhiều hơn
1. Luyện có một lòng ham muốn sâu
xa, nhiệt liệt có những quy tắc
thắng ưu tư.
2. Đọc mỗi chương hai
lần rồi hãy qua chương sau.
3. Trong khi đọc thường
ngừng lại và tự hỏi xem nên áp
dụng mỗi quy tắc cách nào?
4. Gạch dưới mỗi ý quan
trọng.
6. Áp dụng những quy tắc trong
mỗi cơ hội. Coi cuốn này như
một cuốn sổ tay trong khi làm
việc; dùng nó để giải
quyết áp dụng những nỗi khó khăn
hàng ngày.
7. Đặt ra lệ: hễ bạn nào
bắt gặp ta không theo đúng
những quy tắc trong sách thì phải
nộp người đó 10 đồng.
8. Ghi lại những tiến bộ
của ta trong mỗi tuần. Tự
hỏi: ta đã lầm lẫn chỗ nào?
Ta đã ci thiện được ở
chỗ nào? Đã học thêm được
bài gì?
9. Có một tập nhật ký ghi rõ ràng
ngày nào ta đã áp dụng những quy
tắc trong cuốn này và áp dụng ra
sao?
Tôi không bao giờ quên đêm đó, cách
đây ít năm, khi ông Marcon J. Douglas theo
học một trong những lớp
giảng của tôi. Dưới đây là
chuyện thiệt do ông kể cho tôi nghe.
Gia đình ông gặp tai họa liên
tiếp. Lần đầu, đứa con
gái cưng của ông, mới năm
tuổi, thình lình chết. Hai vợ
chồng ông tưởng không sao chịu
nổi cảnh từ biệt đó. Mười
tháng sau ông bà lại bỏ một người
con gái nữa, sanh được năm
ngày. Hai cái tang kế nhau, đau đớn
thay! Ông mất ngủ, mất ăn, cũng
không nghỉ ngơi được
nữa. Bộ thần kinh của ông xúc
động mạnh quá, lòng tin tưởng
tiêu tan. Sau cùng ông lại khám bác sĩ.
Ông ta thử cả hai, cơ thể ông
như bị kẹp vào một chiếc kìm,
mà hai mỏ kìm mỗi ngày một
siết chặt lại. Đoạn trường
ai có qua cầu mới hay!
Ông kể: 'Nhưng cũng may, tôi còn
một đứa con trai bốn tuổi.
Nhờ cháu, tôi tìm được
giải pháp cho tình thế bi thảm
đó. Một buổi chiều, trong kho tôi
ngồi than thờ một mình, cháu
bảo tôi: 'Ba ơi, đóng cho con
chiếc tàu, ba nhé!'. Tôi không buồn
đóng tàu chút nào, mà cũng không
buồn làm việc gì cả. Nhưng cháu
nằng nặc đòi cho kỳ được.
Tôi đành phải chiều cháu.
Đóng chiếc đồ chơi đó,
mất khoảng ba giờ. Lúc đã xong,
tôi nhận thấy rằng đã mấy
tháng nay, lần đó tôi mới
được hưởng ba giờ bình
tĩnh, hưu dưỡng tinh thần.
Nhờ sự phát giác ấy mà tinh
thần tôi ra khỏi cõi mê man và bắt
đầu suy nghĩ được
một chút. Trước kia óc tôi quay
cuồng, có nghĩ ngợi gì được
đâu. Tôi nhận thấy rằng trong
khi bận làm một việc nào đó,
cần phải tính toán, nỗi lo
buồn khó mà tồn tại được.
Trong trường hợp của tôi, công
việc đóng tàu đã thắng
nỗi buồn của tôi. Cho nên tôi
quyết định kiếm việc mà làm
để khỏi ngồi không.
Ngay đêm đó, tôi đi khắp phòng
này sang phòng khác, lập tức một
bảng kê những việc cần
phải thi hành. Có biết bao đồ
đạc phải sửa lại: tủ
sách, bực thang, cửa sổ, mái ngói,
quả nắm, ống khoá, vòi rỉ nước.
Thiệt là lạ lùng, trong hai tuần
lễ, tôi kể ra được 242 công
việc sửa chữa phải làm.
Trong hai năm nay, tôi đã sửa
chữa gần hết. Hn nữa tôi
lại còn làm nhiều việc khuyến
khích kẻ khác, thành thử đời tôi
được đầy đủ.
Mỗi tuần tôi bỏ ra hai đêm theo
lớp giảng cho người lớn
ở Nữu ước. Tôi giúp việc
xã hội trong châu thành, làm hội trưởng
hội học sinh. Tôi dự hàng chục
cuộc hội họp và quyên tiền giúp
hội Hồng thập tự. Còn
nhiều hoạt động khác nữa.
Bây giờ tôi bận việc tới
nỗi không có thời gian để
buồn lo.
'Không có thời gian để lo
lắng!' Chính ông Winston Churchill cũng
nói vậy khi ông làm việc 18 giờ
một ngày trong những tháng nguy kịch
nhất hồi chiến tranh. Người
ta hỏi ông có lo về nhiệm vụ
ghê ghớm của ông không, ông đáp: 'Tôi
quá bận, không có thời gian để
lo chi tiết'.
Ông Charles Ketting cũng ở trong tình
trạng đó khi ông bắt đầu
chế một thứ máy cho xe hơi
tự động, khỏi cần quay. Ông
mới từ chức phó trưởng ban
nghiên cứu của hãng đó. Ban Motors và
qua giúp việc cho ban nghiên cứu của
hãng đó. Ban này nổi tiếng
khắp thế giới. Nhưng hồi
ấy ông nghèo tới nỗi phải dùng
một cái lẫm chứa cỏ khô làm
phòng thí nghiệm. Nhờ có 1.500 mỹ
kim của vợ ông ký cóp trong khi dạy
đàn Piano mà ông có tiền độ
nhật, nhưng ông lại phải mượn
trước 500 mỹ kim ở số
tiền bảo hiểm nhân mạng
của ông nữa mới đủ
sống. Tôi hỏi bà Kettering trong mấy
năm ấy bà có lo buồn không. Bà
đáp: 'Có, Tôi lo buồn đến
nỗi mất ngủ; nhưng nhà tôi thì
không. Nhà tôii say sưa làm việc, không
hề còn biết lo buồn'.
Nhà bác học trứ danh Pasteur, đã nói
về 'sự bình tĩnh tạo các thư
viện và các phòng thí nghiệm'.
Tại sao vậy? Vì những người
ở trong những phòng ấy thường
mê man vào công việc của họ, không
còn thời giờ để lo nghĩ
về mình. Những nhà nghiên cứu ít
kho bị bệnh thần kinh suy nhược.
Họ không có thời giờ phung phí.
Chỉ làm việc không ngừng, cũng
đủ cho nỗi lo âu phi tiêu tan.
Tại sao lại gin dị như vậy?
Đó là nhờ luật sau này, một
trong những luật quan trọng nhất
mà các tâm lý gia đã tìm ra được;
óc người ta, dù thông minh đến
đâu đi nữa, cũng không thể
đồng thời nghĩ đến hai
điều. Bạn không tin vậy ư?
Được, xong bạn thí nghiệm
đi.
Bạn hãy ngả lưng vào ghế,
nhắm mắt lại, rồi ráng cùng
một lúc nghĩ tới tượng
thần Tự do và tới công việc
bạn định làm sáng mai.
Bạn thấy rằng nghĩ tới cái
này rồi tới cái kia thì được,
còn đồng thời nghĩ tới
cả hai thì tốt baat kh phi không?
Những cm xúc của ta cũng vậy. Không
thể đồng thời thấy hăng
hái nhiệt liệt về một công
việc nào đó và thấy chán nản
thất vọng vì một nỗi lo
buồn khác. Cảm xúc này xô đẩy
cảm xúc kia đi và sự phát giác
gỉan dị ấy đã giúp các y sĩ
chuyên trọ bệnh thần kinh trong quân
đội làm được việc phi
thường, hồi chiến tranh vừa
rồi.
Khi binh sĩ ở mặt trận về,
tinh thần hoảng loạn đến
nỗi thành bệnh thì các bác sĩ ra phương
thuốc: 'Đừng cho họ
ngồi không'.
Người ta không để các bệnh
nhân được ngồi yên một phút
nào, thường là bắt họ
phải hoạt động ở ngoài
trời như câu cá, săn bắn, đánh
banh, chơi cầu, chụp hình, làm vườn,
hoặc khiêu vũ khiến họ
chẳng có phút nào rảnh để
nhớ lại những nỗi ghê gớm
ở trận tiền.
Phương pháp trị bệnh thần
kinh đó của các bác sĩ tên là 'tác
động liệu pháp', thiệt không
mới mẻ gì. Các y sĩ Hy Lạp
đã cổ xuý nó 500 năm trước
Thiên Chúa Giáng Sinh.
Thời Benjamin Franklin (1706 - 1790), các tín
đồ phái Quaker cũng thường dùng
nó ở tỉnh Philadephie. Năm 1774
một người lại thăm dưỡng
đường do một tín đồ phái
ấy lập ra, đã lấy làm bất
bình khi thấy những người đau
bệnh thần kinh bị bắt phải
đan vải gai và y liền cho rằng các
tín đồ đã lợi dụng
những kẻ khốn nạn kia. Các tín
đồ bèn gảing cho y hay rằng
họ nhận thấy hễ người
bệnh làm một chút thì bệnh nhân
tỉnh bớt đi, vì thần kinh
của bệnh nhân được an tĩnh.
Những nhà chữa bệnh thần kinh
đều nói rằng công việc- nghĩa
là luôn luôn có việc làm- là thứ
thuốc an thần rất kiến
hiệu. Ông , một thi hào Mỹ, tìm
được chân lý đó khi bà vợ
trẻ của ông mất. Nguyên một hôm
bà đương đốt xi trên
ngọn đèn cầy thì áo bỗng
bắt lửa. Ông nghe tiếng kêu,
chạy lại, thì đã không cứu
được nữa vì bị bỏng
quá nặng. Trong một thời gian khá lâu,
thi hào nhớ cảnh ghê rợn ấy nên
đau xót quá đến gần hoá điên;
nhưng may sao ông còn ba đứa con
nhỏ phải chăm sóc. Thế là
mặc dầu đau xót trong lòng, ông ráng
làm tròn bổn phận 'gà trống nuôn
con'. Ông dắt chúng đi chơi, kể
chuyện cho chúng nghe, đùa với chúng,
và viết bài th bất hủ 'giờ
của con nít' để tả cảnh thân
mật với trẻ. Ông cũng dịch
những tác phẩm của Dante và
tất cả những công việc đó
làm ông bận rộn luôn luôn, quên
hẳn chính thân để mà lấy
lại được sự tĩnh trong
tâm hồn. Đúng như lời Tennyson
đã nói khi bạn thân nhất của
ông là Arthur Hallam qua đời: ' Tôi
phải cắm đầu làm việc, không
thì thất vọng cũng giết tôi thôi'.
Khuyên ai chớ có ngồi rồi
Trong những lúc cắm đầu
cắm cổ làm việc hàng ngày như
con trâu kéo cầy, thì phần đông chúng
ta không thấy sao hết. Nhưng
những ngày nghỉ mới là những
giờ nguy hiểm nhất. Chính lúc ta
được rảnh rang để hưởng
vui thú trên đời và đáng lẽ
được sung sướng thì
nỗi buồn chán, lo lắng len lỏi
vào tâm hồn ta. Lúc đó là lúc ta
tự hỏi đời người ta
rồi đấu có nên cái thá gì không?
Ông chủ của ta muốn nói gì kho ông
vừa chỉ trích ta? Mà sao đầu ta
mỗi ngày mỗi hói như vậy
nhỉ?
Khi không có việc gì làm thì óc ta như
trông rỗng. Mà các sinh viên đại
học đều biết rằng:
'Tạo hoá ghét sự trống rỗng
lắm'. Bạn và tôi, chúng ta thường
thấy một vật gần như
trống rỗng; bóng đèn điện.
Đập vỡ nó đi tức thì không
khí ùa vào lấp khoảng trống
ấy.
Óc ta cũng vậy. Khi nó trống
rỗng thì tạo hoá cho một cái gì ùa
vào trong đó liền. Cái đó là cái gì?
Thường thì là những cảm xúc như
lo lắng, sợ sệt, ghen ghét, oán
hờn, vì từ khi tổ tiên ta còn
ăn lông ở lỗ, những nghịch
cảnh thiên nhiên đã gây ở trong lòng
loài người những cảm xúc
rất mạnh ấy, mạnh tới
nỗi đuổi ra khỏi óc ta tất
cả những cảm xúc và tư tương
vui vẻ, êm ái, dịu dàng.
Ông James L. Mursel dạy môn giáo khoa ở
trường sư phạm Columbia, đã
nhận rõ như vậy khi ông nói :
'Sự lo buồn dày vò bạn không
phải trong lúc bạn làm việc, mà
trong lúc bạn nghỉ ngơi. Lúc đó
óc tưởng tượng của
bạn hỗn loạn. Bạn tưởng
tượng được cả
những cái vô lý, lố bịch nhất
và phải phóng đại cả
những lỗi lầm cực nhỏ... Lúc
đó, óc bạn như một cái máy
quay thả cửa, quay tít mù, khiến cho
những bộ phận chỗng đỡ
có thể bị cháy hoặc tan tành ra
từng mảnh. Vậy thì muốn
trị chứng lo buồn không gì
bằng kiếm việc ích lợi để
rồi say sưa làm việc đó'.
Nhưng không cần phải là một giáo
sư đại học mới nhận
thấy và thi hành cái chân lý ấy đâu.
Trong chiến tranh vừa rồi, một bà
nội ở Chicago đã tự nhận
ra rằng 'phương thức trị
bệnh lo buồn là luôn luôn kiếm
một việc gì ích lợi để làm'.
Tôi gặp bà ta ngồi với ông
chồng trong một toa xe lửa có phòng
ăn, từ Nữu Ước về
một xứ có trại ruộng của
tôi là tôi vốn ghét lối kể thí
dụ mà không cho biết tên và địa
chỉ của các nhân vật để
chứng minh cho câu chuyện.
Hai ông bà kể với tôi rằng hôm trước
có vụ oanh tạc Trân Châu Cảng thì
hôm sau người con độc nhất
của ông bà phải nhập ngũ.
Rồi lo lắng về y quá, bà ta
gầy ốm đi vì những câu
hỏi thầm: 'Con ta ở đâu?' Có
được ở yên không? Hay là đã
ra trận? Có bị thương không? Hay
là chết rồi?
Khi tôi hỏi làm sao dẹp được
nỗi lo ây ấy, bà đáp: 'Tôi
bầy ra việc để làm. Mới
đầu tôi cho ngươì thôi và
tự làm hết việc trong nhà cho
khỏi ngồi không. Nhưng bấy nhiêu
chưa đủ, vì những công
việc làm đó gần như máy
chạy không phông phải suy nghĩ, cho nên
tôi vẫn lo buồn. Khi làm giường,
rửa chén, thấy rằng phút nào
nghỉ ngơi mới được. Và
tôi liền xin một chân bán hàng ở
một tiệm lớn'.
Bà tiếp: 'Như vậy có kết
quả. Từ đó tôi phải lăng xăng:
khách hàng bao vây tôi, hỏi giá cả,
đòi coi màu sắc, kích thước. Không
bao giờ tôi rảnh một giây để
lo tới cài gì khác ngoài công việc
đương làm, và đem tới, chân
đau như dần, cũng không còn nghĩ
gì được. Vừa mới ăn
xong là ném mình xuống giường và
ngủ li bì. Thực tôi không còn thì
giờ mà cũng không còn sức để
lo lắng nữa'.
Như vậy bà ấy đã tự tìm
thấy chân lý của John Cower Powy trong
cuốn: 'Nghệ thuật để quên
điều bất hạnh'. Ông viết:
' Khi mê man vào công việc cần
phải làm, ta thấy yên ổn dễ
chịu, bình tĩnh hoàn toàn trong tâm
khảm và khoan khoái dịu được
thần kinh'.
Mới đây phụ nữ thám hiểm
nổi danh nhất thế giới là bà
Osa Johnson cho tôi nghe cách bà diệt ưu
phiền. Bà đọc cuốn 'Tôi
kết hôn với mạo hiểm' sẽ
biết đời bà nếu có một
phụ nữ nào đã đính hôn
với Mạo hiểm thì chính bà
vậy. Ông Martin Johnson cưới bà
khi bà mới 16 tuổi, đã lôi bà
khỏi châu thành Chanute tại Kansas và
đặt bà ngay vào giữa khi rừng
ở Bornéo. Trong một phần tư
thế kỷ, cặp vợ chồng
gốc gác ở Kansas dó, du lịch
khắp thế giời, quay phim về
đời sống dã man của những
người gần tiêu diệt ở Châu
á và Châu Phi. Cách đây chín năm ông bà
trở về Mỹ, đi diễn
thuyết cùng chiếu nhưng phim tài
liệu ấy khắp tỉnh này sang
tỉnh khác. Do đó có lần ông bà
đi máy bay từ Penver tới bờ
biến Thái Bình Dương, và máy bay
đâm vào một trái núi. Ông chết
tức thì, còn bà bị thương
nặng đến nỗi bác sĩ nói
phải suốt đời nằm
liệt. Nói vậy là vì họ chưa
hiểu biết bà Osa Jonhson: Ba tháng
sau bà ngồi trong một cái ghế có bánh
xe diễn thuyết trước một
số thính giả rất đông.
Rồi mùa đó, bà dùng kiểu ấy
diễn thuyết trên 100 lần. Khi tôi
hỏi bà tại sao lại tự
buộc vào khổ thảm làm vậy, bà
đáp: 'Để khỏi có thời gian
ưu tư'.
Bà Osa Johnson đã tìm thấy chân lý mà Tennyson
đã phô diễn vào thi ca cách đây
khoảng thế kỷ: 'Tôi phải
cặm cụi làm việc nếu không thì
thất vọng chán nản sẽ
giết tôi mất'.
Đô đốc Byrd cũng đã tìm
ra chân lý ấy khi ông sống một mình
trong một cái chòi bị vùi lấp dưới
lớp băng mênh mông, bao phủ Nam
cực như một cái nón đội lên
trái đất - một lớp băng trùm
một đại dương bí mật,
rộng hơn cái diện tích chung
của Châu Âu và nước Mỹ. Đô
đốc Byrd sống cô độc
ở đó trong năm tháng,. Suốt
một trăm hải lý ở chung quanh không
có một sinh vật nào hết. Tiết
trời lạnh tới nỗi ông nghe
thấy hơi thở của ông đóng
băng lại thành những tinh thể
nhỏ xíu mỗi khi gió đánh bạt hơi
thở qua tai. Chính cuốn 'Cô đơn'
của ông đã kể rõ 5 tháng sống
trong bối cảnh đêm tối, làm cho
ta phát nản phát điên đó. Ngày cũng
tối như đêm. Ông phải kiếm
việc làm để cho tinh thần
khỏi rối loạn. Ông nói: 'Đêm
tối, trước khi tắt đèn, ông
tập thói quen vạch rõ công việc hôm
sau. Ví dụ như định để
một giờ đào hầm ra, nửa
giờ san phẳng đống tuyết,
một giờ chêm đống thùng xăng
cho được vững, một giờ
đục những ngăn chứa sách
trong bức tường hầm đựng
thức ăn và hai giờ để thay
một cây ngang gẫy trong chiếc xe'.
Ông tiếp: 'Nhờ đó tôi thấy
tự chủ được mình. Không
thế thì chuỗi ngày của tôi không có
mục đích, mà không có mục đích
thì đời tôi chắc đã tan rã
rồi tàn luôn vậy'.
Cho nên nếu bạn và tôi, ta có ưu
phiền thì cứ nhớ tới phương
thuốc cũ kỹ những rất công
hiệu ấy, là bày ra việc làm.
Lời khuyên đó không phải riêng
của bác sĩ Richard C. Cabol (trước
làm ở trường thuốc Harvard) mà
thôi đâu. Trong cuốn: 'Loài người
sống bằng gì?'. Ông nói: 'Vì là
y sĩ, tôi có cái vui thấy sự
hoạt động chữa được
người mắc bệnh thần kinh chân
ray run run, tôi có cái vui thấy sự
hoạt động chữa được
nhiều người mắc bệnh
thần kinh chân tay run run, tê liệt.
Bệnh ấy di nghi ngờ, do dự,
sợ sệt quá mà sinh ra. - Sự làm
lụng cho ta sự can đảm, mà
sự can đảm, cũng như lòng
tự tín, đã giúp Emerson lưu
danh muôn thuở'.
Nếu bạn và tôi không kiếm
được để làm, cữ
ngồi không mà nghĩ vơ nghĩ
vẩn, thì có một bầy quỷ
dữ sinh ra và đục khoét, phá tan năng
lực hành động và ý chú của
ta.
Tôi được biết một nhà buôn
ở Nữu Ước đã thắng
bầy quỷ dữ đó bằng cách
cắm đầu làm việc luôn tay,
tới nỗi không có thời giờ
ưu phiền nữa. Ông tên Tromper Longmay
và hãng ông ở đường 40 Wall
street. Ông theo lớp giảng của tôi.
Câu chuyện của ông hay và cảm
động tới nỗi sau mỗi
buổi học, tôi mời ông lại dùng
bữa tối với tôi. Ông ngồi
ở khách sạn tới quá nửa đêm,
bàn bạc về những kinh nghiệm
của ông. Ông kể với tôi như
vầy: 'Mười tám năm trước,
tôi ưu phiền, tới mất ngủ.
Tôi nhăn nhó, quạu quọ... Tôi có
cảm tưởng sắp bị thần
kinh suy loạn.
Mà tôi ưu phiền không phải là vô
cớ. Nguyên tôi làm thủ quỹ
một công ty bán trái cây ở Nữu
ước. Chúng tôi bỏ ra nửa
triệu mỹ kim để mua trái dâu
về đóng hộp. Đã 20 năm
rồi chúng tôi bán dâu hộp cho
những hãng nước đá. Thình lình
bán không được nữa vì hãng như
National Dairyand Borden tăng năng lực
sản xuất lên rất nhanh và chỉ
nhận mua dâu đóng thùng, cho được
rẻ và đỡ mất thời gian.
Thế là không những nửa triệu
mỹ kim trái dâu ấy dành bỏ ế,
mà lại còn số dâu trị giá môt
triệu mỹ kim, theo giao kèo, phải mua
trong 12 tháng sau nữa. Làm sao tiêu thụ
được bây giờ? Chúng tôi đã
vay ngân hàng 350.000 mỹ kim. Không có cách nào
trả nổi mà cũng không vay thêm
được. Vậy tôi có lo lắng cũng
là lẽ tự nhiên.
Tôi chạy lại xưởng ở
California, ráng làm cho ông hội trưởng
hiều rằng thời vận đã xui,
và chính tôi đương bị phá
sản. Ông nhất định không tin,
ông đỗ lõi cho cơ quan thương
mãi của chúng tôi ở Nữu ước.
Tội nghiệp cho họ!
Sau tôi phải giải nhiều ngày, ông
mới chiu ngưng đóng hộp dâu và
đem dâu tươi bán ở chợ San
Francisco. Như vậy là nỗi khó khăn
của chúng tôi gần giải quyết
được. Đáng lẽ tôi hét lo;
nhưng trái lại, lo lắng là một
thói quen, mà tôi có thói tệ hại
ấy.
Khi tôi trở lại Nữu ước, cái
gì cũng làm cho tôi lo, lo về số trái
cây mua ở ý, mua ở Hawai và trăm ngàn
thứ nữa. Tôi nhăn nhó càu nhàu
mất ngủ và như vừa mới nói,
tôi muốn loạn óc.
Trong khi thất vọng, tôi quyết định
một lối sống mới, nhờ
đo àm ngủ được và hết
lo. Tôi kiếm việc làm. Tôi cặm
cụi vào những việc nào choán
hết tâm trí tôi, đến nỗi toio
không còn thời giờ lo buồn
nữa. Trước kia tôi làm việc
bảy giờ một ngày, Bây giờ
mọt ngày tôi làm 15, 16 giờ. Tôi
nhận những phận sự, trách
nhiệm mới. Nửa đêm về nhà,
toio mệt mỏi đến nỗi
vừa lăn xuống giường
được vài giây đã thiếp
đi rồi.
Tôi theo đúng chương trình này trong
khoảng ba tháng, thành thử tôi đã
bỏ được tật hay lo, sau
đó trở lại làm việc bảy tám
giờ như đời sống cũ.
Chuyện đó xảy ra 18 năm trước.
Từ đó đến nay không bao
giờ tôi lo lắng hoặc mất
ngủ nữa'.
Ông Bernard Shaw có lý. Ông tóm tắt
hết những điều đó trong câu
này: 'Có muốn khổn khổ thì
cứ phí công tự hỏi xem mình sướng
hay khổ'. Vậy bạn đừng
bao giờ phí công nghĩ đến điều
đó nhé! Xăn tay lên và làm việc. Máu
bạn sẽ lưu thông, óc bạn
sẽ haotj đọng và chẳng lâu
đâu, sự dồi dào của nhựa
sống chạy khắp cơ thể
bạn, sẽ đuổi ưu phiền
ra khỏi đầu óc bạn ngay.
Kiếm việc ra làm. Đừng
ngồi không đó là phương
thức rẻ nhất ở đời -
mà cũng thần hiệu nhất nữa
|
7- Đời người
ngắn lắm
Có lẽ suốt đời tôi không quên
chuỵên thê thảm dưới đây
do ông Robert Moore ở Newsey kể lại.
Ông rằng: 'Tháng ba năm 1945 tôi đã
học được một bài quan
trọng nhất trong đời tôi,
học được ở ngoài khi
bờ biển Đông Dưng, dưới
mặt nước hn 90 thước.
Bấy giờ chúng tôi biết hết thy
88 người ở trong chiếc tiềm
thuỷ đĩnh Baya SS.318. Nhờ máy ra
đa chúng tôi biết có một đoàn
tàu nhỏ của chúng tôi cho tàu lặn
xuống để tấn công. Nhìn vào kính
tiềm vọng, tôi thấy một
chiếc tàu hộ tống, một
chiếc tàu đầu và một
chiếc tàu th mìn. Chúng tôi bèn thả trái
thuỷ lôi về phía chiếc tàu hộ
tống, nhưng cắc đã có bộ
phận nào hư trong máy móc của
những thuỷ lôi ấy nên đều
không trúng. Tuy nhiên chiếc tàu hộ
tống không hay chi hết, vẫn
tiến tới. Chúng tôi đang sửa
soạn để tấn công chiếc tàu
thả mìn đi sau cùng; thì dường
như một phi c địch đã
nhận được vị trí chúng tôi
ở dưới 20 thước nước
và đã đánh vô tuyến điện
cấp báo nên thình lình chiếc tàu này
quay mũi tiến thẳng lại. Chúng tôi
liền lặn xuống hơn 50 thước
để trốn và để tránh
những thuỷ lôi của địch.
Rồi tắt máy quạt, máy lạnh và
tất cả những máy điện
cốt cho không có tiếng động nào
hết.
Nhưng nào có thoát. Ba phút sau, sáu
thuỷ lôi nổ chúng quanh chúng tôi như
trời long đất lở và đưa
chúng tôi xuống đáy biển, sâu trên
90 thước.
Chúng tôi vô cùng kinh khủng. ở
mực sâu chừng 300 thước mà
bị tấn công dã là nguy hiểm
rồi, nếu lại ở mực không
đầy 150 thước thì đành là
tận số. Mà chúng tôi bị tấn công
ở dưới sâu chỉ già nwarcon
số sau một chút. Mười phần
chắc chìm hết năm. Quân địch
th thuỷ lôi tấn công chúng tôi luôn 15
giờ. Nếu có một chiếc nổ
cách chiếc tiềm thuỷ đĩnh năm
sáu thước thôi, cũng đủ làm
thủng một lỗi vỏ tàu và có c
chục chiếc thuỷ lôi đã nổ
cách chúng tôi 16 thước. Chúng tôi
được lệnh phi nằm yên trên
giường không nhúch nhích. Riêng tôi, tôi
sợ tới nỗi gần như
nghẹt thở, luôn miệng lẩm
bẩm: 'Chết rồi!... Chết
rồi!... Chết rồi!' Cùng vì chúng tôi
đã tắt máy lạnh và máy quạt,
nên nhiệt độ trong tàu tăng lên
đến 40độ, mặc dù vậy,
tôi cũng run lên vì quá sợ, đã phi
mặc thêm một chiếc áo len và
một chiếc áo lót có lông nửa mà cũng
chẳng hết run. hai hàm răng đánh
lập cập. mồ hôi toát ra lạnh và
nhờn. Bọn Nhật tiếp tục
tấ công như vậy trong 15 giờ
rồi có lẽ vì hết thuỷ lôi, chúng
lặng lẽ bỏ đi. Mười lăm
giờ đó, chao ôi! Lâu bằng 15
triệu năm. Lúc ấy tôi nhớ
lại hết quãng đời đã tri,
nhớ lại những hành vi xấu xa,
những nỗi lo lắng lặt vặt.
Trước khi vô hi quan, tôi giúp việc
một ngân hàng và hồi ấy tôi
phiền muộn vì việc làm thì
nhiều, số lưng thì nhỏ, mà ít
hy vọng được tăng.
Toi lại buồn vì không tậu
được một căn nhà, không mua
được chiếc xe mới, không
sắm được áo mới cho
vợ. Và tôi ghét ông chủ của tôi
biết bao, cái người mà lúc nào cũng
rầy la, quạ quọ. Tôi nhớ
cứ những buổi tối có điều
buồn bực, tôi về nhà, lại
gắt gỏng vô cớ rồi gây
sự với nhà tôi. Tôi cũng buồn
vì một cái thẹo xấu xí nằm
ngay giữa trán do tai nạn xe hi nữa.
'Hồi ấy tôi chi những nỗi
ưu tư vĩ đại vô cùng! Nhưng
bây giờ, trong lúc thuỷ lôi của quân
giặc vô tình muốn mời tôi
xuống chi thuỷ thủ, tôi thấy nó
vô nghĩa làm sao! Tôi tự hứa
'Chuyến này mà thoát chết, còn
được trông thấy mặt
vợ con thì quyết không bao giờ thèm
lo một điều gì nữa. Không bao
giờ! Không bao giờ! Không bao giờ!
Trong 15 giờ đồng hồ ấy tôi
đã học được về
nghệ thuật sống nhiều hn là
học sách vở tại trường
đại học Syrracuse trong bốn năm'.
Chúng ta thường can đm đối
phó với những nạn ghê gớm, mà
lại để cho những nỗi lo
lắng nhỏ mọn vô lý nó thắng
ta. Chẳng hạn như chuyện ông
Harry Vane bị xử trm do ông Samuel Pepys chép
lại trong tập 'Nhật ký' của ông.
Khi ông Harry bước lên đoạn
đầu đài, ông không an ủi,
dặn dò vợ con mà chỉ căn
dặn tên đao phủ trong khi chặt
đầu đừng chạm tới cái
nhọt nhức nhối ở cổ mình.
Đô đốc Byrd cũng nhận
thấy điều đó trong những
đêm ở Nam Cực lạnh buốt xưng
và tối như âm phủ. Ông nghe
bọn tuỳ tùng phàn nàn về
những chuyện lặt vặt hn là
về những việc lớn. Họ vui
vẻ về chịu hết mọi
sự nguy hiểm, khổ sở vì
thời tiết lạnh tới 45 độ
dưới số không. Nhưng ông đã
thấy hai người chung sốn mà
giận nhau đến không thèm nói
với nhau nửa lời, chỉ vì người
này nghi người kia lấn sang chỗ
để đồ của mình mất vài
phân; và một người nữa không
chịu ăn nếu không kiếm
được một chỗ khuất
để khỏi trông thấy một tín
đồ kỳ cục cứ mỗi
miếng ăn nhai đủ 28 lần
rồi mới nuốt.
Đô đốc nói: 'Trong trại
cắm ở Nam Cực, những
chuyện vụn vặt như vậy làm
cho những người dù trọng
kỷ liật thế mấy cũng
gần phi hoá điên'.
Đô đốc có thể nói thêm
rằng: 'Những chuyện vụn
vặt trong hôn nhân có thể làm cho người
ta gần hoá điên và có thể sinh ra năm
chục phần trăm bệnh đau tim
ở thế gian này'.
Đó chính là ý kiến của nhà chuyên
môn. Như ông toà Joseph Sabath ở Chicago,
một người đã rắng điều
gii trene 40 ngàn vụ ly hôn, tuyên bố:
'Phần nhiều những cặp vợ
chồng xin ly dị đều do
chuyện lặt vặt hết'; và ông
F.S- Hogan cướng lý Nữu ước
nói': 'Già nửa các vụ xử trong toà
đại hình đều do những nguyên
nhân rát nhỏ. Thách doạ nhau trong quán
rượu, kẻ ăn người
ở gây gỗ nhau, một câu sỉ
nhục, một lời mất lòng,
một hành vi thô lỗ, những cái lăng
nhăng đó đưa tới ẩu
đ và án mạng. Rất ít người
tàn ác xấu xa lắm. Một nửa
những đau đn của ta là bởi
lòng tự ái bị thưng tổn
nhẹ hoặc lòng kiêu căng bị kích
thích nhục nhã'.
Khi mới cưới, cô Eleanor Roosevelt ngày
nào cũng bát bình vì người hầu
bếp làm hư một món ăn. Nhưng
sau cô đã đổi tánh. Cô nói: 'bây
giờ thì tôi chỉ nhùn vai rồi
bỏ qua'. Được lắm, như
vậy mới phi là người lớn.
Cứ xem Nga hoàng Catherine chuyên chếc làm
vậy mà cũng chỉ cười khi người
bếp nấu hư một món ăn,
huống hồ là chúng ta. Vợ chồng
tôi có lần ăn tiệc nhà người
bạn là anh John ở Chicago. Bạn tôi
cắt thịt cò vụng về không, tôi
không thấy, mà nếu có thấy cũng
không cần biết. Nhưng chị John
để ý nhy lên la: 'Anh John phi có ý
tứ chứ?' Anh không biết cắt
thịt rồi!!'.
Doạn chị nói với chúng tô: 'Anh
ấy luôn luôn vụng về như không
tập cắt thịt bao giờ'. Có
lẽ bạn tôi không tập cắt
thịt bao giờ thiệtm, nhưng tôi
phi khen anh đã dám sống chung với
chị ấy trên 20 năm trường.
Thứ thật, chẳng thà bắt tôi
ăn thịt voi, xấu chấm muối
trong một không khí hoà thuận còn hn là
cho tôi ăn nem công ch phượng mà
bắt phi nghe những lời rầy
của chị.
ít lâu sau, chúng tôi mời bạn bè
lại nhà dùng bữa. Vừa lúc khách
khứa tới thì nhà thôi thấy có ba
chiếc khăn ăn không cùng một
thứ với nắp bàn.
tiệc an, nhà tôi kể lại: 'Em
chạy đi kiếm một người
dọn bàn thì ra chiếc khăn ăn kia
còn ở tiệm giặt. Khách đã
tới cửa rồi, không sao thay kịp
nữa. Em muốn khóc, thầm nghĩ:
'Tại sao lại có sự vô ý kia
khiến cho chiều nay mất vui đi như
vậy? Nhưng sau em tự nhủ:
'Tại sao mất vui? Cứ nhất đinh
vui đi nào! và em vô phòng ăn, đành
mang tiếng với bạn bè là người
nội trợ dở, còn hn là tiếng cáu
kỉnh, xấu thói. Song thiệt ra khách
khứa nào có ai để ý tới khăn
ăn ấy đâu!'.
Trong luật có câu này ai cũng biết:
'Luật không kể tới những
việc lặt vặt'. Người hay
ưu tư cũng đừng kể gì
những việc lặt vặt, mới có
thể bỉnh tĩnh trong tâm hồn
được.
Nhiều khi muốn thắng nổi lo
lắng lặt vặt, ta chỉ cần xét
chúng theo một phưng diện mới
mẻ. bạn toi, ông Homer Croy, tác gi
cuốn: 'Họ phi viếng thành Ba lê' và
motoj chục cuốn khác nữa, đã
thi hành phưng pháp ấy và có kết qu
lạ thường. Khi ông ngồi
viết sách tại bàn giấy, tiếng
máy sưởi điện ở trong phòng
làm cho ông nhức đầu đến
muốn điên. Hi nước do máy
xịt ra, khiến ông quụa quọ, cn
giận cũng muốn xì ra.
Ông nói: 'Rồi một hôm đi cắm
trại cùng mấy anh em, tôi nghe tiếng
củi nổi lạch tạch, tiếng
lửa phun phì phì, mà cm thấy những
tiếng đó không khác chi tiếng máy sưởi
ở nhà toi hết. Tôi tự hỏi
tại sao tiếng nọ thì ghét,
tiếng này thì ưa? Về nhà, tôi
tự nhủ: 'Tiếng máy sưởi cũng
tưng tự tiếng củi nổ
lạch tạch, mà tiếng này ta
thấy vui tai, thì ta chãy đi ngủ và
đừng bực tức về tiếng
máy sưởi nữa'. Và tôi làm đúng
như vậy. Trong ít ngày đầu, còn
nghĩ tới máy sưởi, nhưng
về sau lần lần tôi quên nó
rồi.
'Những nỗi bực mình nhỏ
nhặt của ta cũng vậy. Ta oán ghét,
thịnh nộ, chỉ vì ta coi nó quá quan
trọng...'
Nhân vì Disrael có nói: 'Đời nglười
tựa bóng câu, hi đâu mà nghĩ
tới những chuyện lặt vặt',
nên Andres Maurois viết trong tờ 'This
Week': 'Câu đó đã giúp tôi nén
được biết bao nỗi đau lòng.
Chúng ta thường để cho
những chuyện lặt vặt làm ta
điên đo mà đáng lý ta nên khinh và
quên nó đi...Chúng ta còn sống
được vài năm trên trái đất
nước này, thời khắc bất tái
lai, cớ sao bỏ phí bao nhiêu giờ
để ấp ủ trong lòng ưu tư,
bất bình không quan trọng mà chỉ
một năm sai là người khác và c
ta nữa đều quên hết? Không nên
vậy, hãy nên hy sinh đời ta cho
những hành động và cm tình đáng
quý, những tư tưởng cao thượng,
những tình thưng chân thật và
những sự nghiệp lâu bền'.
ấy vậy mà một danh nhân như
Rudyard Kipling cũng đã có lần quên
rằng 'Đời người tựa bóng
câu, hi đâu mà nghĩ tới những
chuyện lặt vặt'. Và kết qu ra
sao? Kết qu là ông và ông anh vợ
kiện nhau, làm náo động c miền
Verrmont như một cuộc chiến tranh
về pháp luật vậy, một
chiến tranh vang động tới
nỗi có người đã viết
một cuốn sách nhan đề là
'Rudyard Kipling tranh hùng ở Verrmont'.
Câu chuyện như thế này: Rudyard
Kipling sau khi cưới một cô
ở Vermont, tên là Caroline Balestier bèn
cất một ngôi nhà xinh xắn ở
Brattleboro, hy vọng sẽ lấy đó làm
nơi dưỡng già.
Rồi nhân vì cùng người anh vợ
tên Beatty Balestier thân thiết trong khi làm
việc cũng như lúc chơi bời,
Kipling mới mua một miếng đất
của Balestier mà thuận để y
giữ lại được quyền
cắt cỏ. Nhưng một hôm không
biết nghĩ sao Kipling lại trồng
hoa trên bãi cỏ kia, Balestier thấy
vậy liền sôi máu lên, la ó, chửi
rầm rĩ. Kipling không kém, cũng
nổi lôi đình. Thế là lời qua
tiếng lại, không khí Vermont hoá ra khó
thở, u ám.
Vài ngày sau khi Kipling đạp xe máy trên
đường, thình lình gặp người
vợ đánh xe ngựa ra con lộ. Ông
phải nhẩy vội xuống hố bên
lề và hẳn đã quên bẵng câu này
mà chính ông đã viết: 'Nếu
bạn giữ được tâm hồn
bình tĩnh trong khi những người
chung quanh điên rồ phán đoán và trách
bạn quá thản nhiên, thì bạn
mới thật là con người. 'Ông
mất khùng tới nỗi đòi bắt
giam Balestier, để xảy ra vụ
kiện sôi nổi. Các nhà báo ở đô
thị lớn đổ xô về Vermont.
Tin tức bay khắp thế giới.
Vụ kiện không có kết quả nhưng
làm vợ chồng Kipling phi bỏ ngôi nhà
xinh xắn ở Verrmont cho tới
chết. Thật là bao nỗi oán giận
chua chát chỉ vì một nguyên nhân
lặt vặt: một bó cỏ khô.
Dưới đây là một cốt
chuyện hay nhất do bác sĩ Harry
Emerson Fosdick kể lại, một
truyện về những thắng bại
của một cây đại thụ trong
rừng.
Trên sườn núi Long's Peak ở Colorado,
có một cây khổng lồ bị tàn phá
còn lại nội một khúc thân.
Những nhà thực vật học đoán
cây đó sống khoảng 400 năm.
Hồi Kha Luân Bố đặt chân
lên đất San Salvador, nó đã có
rồi và khi những cố đạo
tới gây dựng sự nghiệp ở
Plymouth, nó mới sống được
nửa đời của nó. Trong đời
sống dài đằng đẵng
suốt bốn thế kỷ đó, nó
bị sét đánh 14 bận và trải qua
biết bao lần sâu đục khoét nó
đành chịu đổ lăn ra. Đàn
sâu khoét hết lớp vỏ rồi,
mỗi ngày nhấm một chút, liên
tiếp không ngừng, tuần tự phá
phách sinh lực của cây. Thành thử
một cây cổ thụ khổng lồ
chống nổi với thời gian,
với sấm sét, với dông tố, mà
rút cục bị hạ, vì những con sâu
tí hon, nhỏ xíu tới nỗi có
thể bẹp nát giữa hai đầu
ngón tay người!
Chúng ta chẳng giống cây khổng
lồ trong rừng đó ư? Chúng ta
chẳng thường vinh quang thắng
được những cảnh sấm sét,
dông tố, trời long đất lở
trong đời để rồi bị
nhữn nỗi lo lắng lặt vặt
ấy có khác cho những con sâu nhỏ
kia mà ta có thể bóp bẹp giữa hai
đầu ngón tay không?
Mấy năm trước, tôi du lịch
qua vườn Tetton ở Wyoming, Charles
Seifred và người bạn của ông.
Chúng tôi đi thăm khu vườn
của John D. Rockfeller. Nhưng chẳng may
chiếc xe của tôi lạc đường
thành thử đi tới khu vườn
một giờ sau các xe khác. Ông Seifred
giữ chìa khoá để mở cừa vườn,
cho nên ông phải đợi tôi một
giờ đồng hồ ở trong
rừng vừa hầm vừa nhiều
muỗi. Muỗi bu lại làm cho ai cũng
phải điên, thế mà không làm ông
Charles Seifred bực bội chút nào
hết. Và khi chúng tôi tới không
thấy ông đương nguyền
rủa muỗi mà lại thấy ông
đương thổi còi. Tôi giữ
chiếc còi ấy làm kỷ niệm
để nhớ một người dã
biết coi rẻ những chuyện
nhỏ nhặt
|
8- Một định
lệ diệt được nhiều
nỗi lo lắng
Hồi nhỏ tôi sống ở một
trại ruộng tại Missouri, và một
hôm trong khi giúp má tôi lấy một anh
đào, tự nhiên tôi oà lên khóc. Má tôi
hỏi: ”Dale, cái gì mà khóc vậy?“ Tôi
sụt sùi đáp: ”Con sợ sắp
bị chôn sống“.
Thời ấy óc tôi đầy những
lo lắng. Trời sấm sét, tôi lo
bị sét đánh. Trờ làm mất mùa,
tôi lo đói. Tôi lo sợ sẽ phải
xuống địa ngục. Tôi sợ
hảng khi nghe một đứa bạn
lớn, tên Sam White, doạ sẽ cắt
lấy tai. Tôi lo sợ các cô gái cười
tôi khi tôi dở nón chào các cô. Tôi lo
sợ sau này không có cô nào ưng tôi. Tôi
lo lắng không biết khi mới nghinh hôn
xong, sẽ nói với vợ tôi câu gì. Tôi
tưởng tượng sẽ làm lễ
cưới tại một nhà thờ thôn
quê, rồi ngồi chiếc xe song mã có rèm
rủ mà trở về trại... Nói
chuyện gì với tôi suốt quãng
đường về trại đó? Làm
sao được? Tôi suy nghĩ hàng
giờ tới vấn đề động
trời đó trong khi cày ruộng.
Và ngày tháng qua, tôi dần dần
thấy rằng 99 phần trăm
những nỗi lo lắng ấy không bao
giờ xảy tới.
Chẳng hạn như trên kia đã nói,
tôi sợ bị sét đánh, thì bây
giờ tôi biết rằng, theo bảng
thống kê mỗi năm của quốc
gia trong số 350.000 người chị có
một người bị sét đánh (
nghĩa là phần rủi ro chỉ là
1/350.000). Còn sợ bị chôn sống
mới vô lý nữa chứ, tôi không tin
rằn trong 10 triệu người có
tới một người bị chôn
sống, vậy mà tôi đã lo sợ
tới khóc lóc.
Trái lại trong tám người, có
một người chết vì nội ung.
Thế thì nếu nên lo lắng, ta lo
bị ung thư còn có lý hơn là lo
bị sét đánh hoặc chôn sống.
Đã đành, trên kia tôi chỉ kể
những ưu tư của tuổi thơ
và tuổi xuân, nhưng biết bao
lần nỗi lo của người đứng
tuổi cũng gần vô lý như
vậy. Bạn và tôi đều có
thể giải được 9 phần
những âu sầu chúng ta ngay, bây
giờ, nếu chúng ta chịu quên ưu
tư trong một lúc, vừa đủ
để suy nghĩ xem, theo luật trung bình,
những lo lắng của ta có lý hay không.
Hãng bảo hiểm nổi danh nhất
thế giới, - hãng Lyond ở Luân Đôn-
sở dĩ kiếm được không
biết bao nhiêu triệu đồng là do
cái thói cả lo của chúng ta về
những sự ít khi xảy tới. Hãng
đánh cá với thân chủ rằng
những tai nạn mà họ lo đó không
bao giờ có hết. Nhưng họ không
chịu nhận như vậy là đánh
cá. Họ gọi là bảo hiểm.
Thiệt thì đó là đánh cá, một
lối đánhh cá khoa học, lấy
luật trung bình là nền tảng
vậy. 200 năm nay hãng đã phát đạt
vô cùng. Và bản tính của loài người
chưa thay đổi thì hãng còn phát
đạt cả ngàn năm nữa,
nhờ sự bảo hiểm xe, tàu,
giầy dép, keo khằn... vì theo luật
trung bình, ít khi xảy ra tai hoạ cho
những món đó lắm. mà người
đời không chịu hiểu như
thế.
Xét kỹ luật ấy, chúng ta sẽ
thấy nhiều sự phát giác bất
ngờ. Chảng hạn nếu tôi
biết trước rằng khoảng 5 năm
nữa, tôi phải chiến đấu
trong một trận cũng đổ máu
như trận Gettyberg (hồi Nam
Bắc chiến tranh) thì chắc là tôi
hoảng sợ tới chết ngất. Tôi
sẽ bảo hiểm nhân mạng tôi
liền, tôi sẽ nói: ”Không sao sống
sót sau trận đó được đâu,
còn được ngày nào thì tận hưởng
ngày đó đi“. Nhưng sự
thật thì theo luật trung bình, phần
rủi bị chết trong trận ấy
cũng chỉ bằng phần rủi
bị chết trong thời bình, vào
khoảng 50 tới 55 tuổi thôi. Nghĩa
là thời bình cứ 1.000 người có
nhiều người chết từ 50
đến 55 tuổi thì trong số 163.000
lính ở trận Gettyberg cũng cứ
1.000 người chỉ có bấy nhiêu người
bỏ mạng.
Tôi viết nhiều chương trong
cuốn này ở bên bờ 'Hồ Bán
Nguyệt' tại miền núi đá
xứ Canada, nơi mà tôi làm quen với
vợ chồng bà Herbert H. Salinger. Bà
rất điềm đạm, bình tĩnh,
nhưng không bao giờ lo lắng hết.
Một buổi chiều, ngồi trước
lò sưởi, củi nổ lách tách, tôi
hỏi có bao giờ bà bị lo lắng
quấy nhiễu không thì bà đáp:
'Quấy nhiễu mà thôi ư? Nó đã
gần làm hại đời tôi nữa
kia. Trước khi tháng được nó,
tôi sống 11 năm trong cảnh địa
ngục mà tôi tự giam vào. Tôi nóng tính
và hay oán. Lúc nào cũng lo sợ không yên.
Thường thường mỗi tuần
tôi đi xe ô tô buýt từ nhà đến
San Francisco để mua bán lặt
vặt. Nhưng trong khi mua bán, tôi lo
lắng tới cái này cái nọ: Bàn
ủi điện đã gỡ ra chưa?
Có lẽ cháy nhà mất? Chị ở
chắc bỏ đi rồi, ai coi sóc
tụi nhỏ? Dễ mà tụi nó cưỡi
xe máy đi chơi, bị xe cán rồi cũng
nên? Có kho tôi sợ toát mồ hôi,
chạy vội về nhà coi có xảy ra
chuyện gì không. Ông xem như thế thì
vợ chồng tôi đã phải ly
dị nhau, điều đó cũng không
còn gì đáng lạ.
'Người chồng sau của tôi là
một luật sư bình tĩnh, có óc phân
tích, không bao giờ lo lắng. Khi tôi
ưu tư, dây thần kinh căng
thẳng, nhà tôi bảo: 'Cứ yên tâm.
Thử suy xét việc đó xem nào. Mình
lo về chuyện gì vậy? áp dụng
luật trung bình xem việc đó có
thể xảy ra được không
đã!'.
Chẳng hạn, tôi nhớ lần chúng tôi
lái xe từ Albuquerque ở New Mexico
tới Carlsbad. Đường thì lầy
mà trời thì gió mưa, dông tố. Xe
cứ trượt đi, khó kèm tay lái
được. Tôi tin thế nào cũng
lăn xuống hố bên đường,
nhưng nhà tôi không ngớt lời
nhắc: 'Tôi lái rất chậm. Không có
chi xảy ra đâu. Mà dù có đâm
xuống hố nữa thì theo luật
trung bình chúng ta đi cắm trại
ở thung lũng Touquin tai chân dãy núi
Canada. Một đêm, chúng tôi nghỉ trên
một nơi cao hơn bờ biển
2.300 thước. Bỗng có cơn dông
nổi lên, muốn phá tan cái lều
vải của chúng tôi. Lều dựng trên
một sàn gỗ bằng dây thừng. Gió
thổi đến vải căng
phồng rung động, rít lên. Tôi lo nó
bị lung tung lên trời quá. Tôi
hoảng sợ. Nhưng nhà tôi bình tĩnh
nói: 'Này mình, chúng ta đi lần này có
nhiều người dẫn đường.
Họ hiểu công việc của họ
chứ! Họ cắm trại núi này 60 năm
rồi. Mấy năm nay đã có
nhiều trại cắm ở chỗ này.
Chưa có trại nào bị gió tung lên
trời, thì theo luật trung bình, đến
nay cũng không sao hết; mà nếu
rủi trại mình có thổi tung đi
nữa thì qua trại khác chứ có gì
đâu... Thôi đừng lo nữa'.
Tôi nghe lời và ngủ thẳng giấc
suốt đêm.
Rồi lại mấy năm trước,
miền Califonie của chúng tôi phát sinh
bệnh dịch trẻ con tê liệt. Trước
kia, hay tin đó tôi đã sợ và mà phát
kinh động. Nhưng nay dã có nhà tôi
khuyên tôi bình tĩnh. Chúng tôi đề
phòng rất cẩn thận không cho các
con cháu lại chỗ đông người,
không cho chúng đi học, đi coi hát bóng.
Sau lại hỏi sở y tế thì hay
rằng từ trước tới nay
Califonie, trong những khi bệnh đó phát,
thấy một lần ghê gớm nhất
có 1.835 đứa trẻ chết, còn
những lần khác chỏ có 200 hoặc
300 đứa. Những con số ấy
mặc dầu đáng sợ, nhưng theo
luật trung bình thì phải rủi có là
bao?
'Theo luật trung bình nỗi lo lắng
đấy sẽ không xảy ra đâu'.
Câu ấy đã phá tan 90 phần trăm
nỗi lo của tôi và làm cho đời
tôi trong 20 năm nay bình tĩnh không
ngờ.
Đại tá George Grook, người
da đen cầm quân có lẽ giỏi
nhất trong lịch sử Mỹ, chép ào
cuốn 'Tự truyện' của ông
rằng: 'Hầu hế những nỗi lo
lứng và khỏ sở của người
da đen đều do họ tưởng
tượng ra, chứ không có thiệt'.
Nghĩ lại mấy chục năm sau này,
tôi thấy những ưu tư của tôi
do tưởng tượng mà ra. Ông Jim
Grant nói với tôi ông cũng nhận
thấy vậy. Ông có một tiệm bán
trái cây ở Nữu Ước, vẫn
hay mua 10 đến 13 toa xe cam và bưởi/
Ông thường bị nhữn ý nghĩ
này dày vò: Nếu có một chuyến xe
trật đường rầy thì sao? hay
là nếu xe đương qua cầu mà
sập thì sao? Đã đành, trái cây
đã có bảo hiểm, nhưng ông
sợ nếu đến hẹn, không có
trái để giao cho khách hàng thì sẽ
mất mối. Ông lo nghĩ quá đến
nỗi ông tưởng bị ung thư
trong bao tử, phải đi khám bác sĩ.
bác sĩ nói ông không đau gì hết,
chỉ có thần kinh suy nhược. ông
nói: Nghe lời ấy tôi hiểu ra ngay nên
tự hỏi rồi tự đáp
những câu này:
-Này Jim Grant, từ trước tới
nay, anh đã mua bao nhiêu toa trái cây
rồi?
- Khoảng 25.000 toa.
- Có bao nhiêu toa bị trật đường
rầy?
- ồ! Khoảng năm toa. 25.000 toa mà
chỉ có năm toa bị tai nạn.
Thấy nghĩa lý gì không? Tỷ lệ
là 1/5000. Nói một cách khác, theo luật
trung bình do kinh nghiệm mà biết thì
phần rủi bị tai nạn chỉ là
một phần 5000. Vậy anh còn lo
nỗi gì?
- Ừ, một chiếc cầu có thể
sập được: nhưng từ trước
tới nay mất mấy toa vì cầu
sập rồi?
- Cầu chưa bao giờ sập hết
5.000 toa mới có một toa trật
đường rầy, vậy mà lo
tới nỗi tưởng bị ung thư
trong bao tử thì chẳng phải là
điên ư?
Khi tôi nghĩ vậy, tôi thấy trước
kia tôi ngu quá. Tức thì tôi quyết
định để luật trung bình lo
giùm tôi và từ đó tới nay, tôi
hết sợ bị ung thư trong bao
tử nữa'.
Khi Al. Smith làm Thống đốc
Nữu ước, tôi thấy khi ông
đứng trước sự công kích
của đối phương trên trường
chính trị đã đối phó bằng
cách lặp đi lặp lại mỗi
một câu này: 'Chúng ta hãy coi những con
số... hãy coi những con số'.
Rồi ông đưa những sự
kiện ra . Lần sau bạn và tôi có lo
lắng điều chi thì cũng nên theo
phương pháp khôn khéo của ông già
Al.smith: hãy coi con số và xem xét lý
lẽ- nếu có- của những lo
lắng có vững chãi không. Chính ông Fréderick
J. Mahlstedt nói vậy khi ông bị vùi
xuống huyệt. Ông kể:
'Đầu tháng sáu năm 1944, tôi
nằm trong một lỗ hầm gần
vịnh Omala. Tôi ở trong đội tình
báo 999 và chúng tôi mới 'vùi thân' ở
miềm Normadie. Tôi nhìn xung quanh, xem xét
lại lỗ hầm chữ nhật
của tôi và tự nhủ: 'Có vẻ
lỗ huyệt quá'. Khi nằm xuống và
rán nghỉ thì tôi có cảm tưởng
như nằm trong mồ. Tôi tự nghĩ:
'Có lẽ mồ của ta đây'. Mười
một giờ sáng, khi phi cơ oanh
tạc của Đức bay lượn
trên đầu bom bắt đầu
dội suống, tôi sợ tới nỗi
chết cứng. Hai ba đêm đầu tôi
không hề chợp mắt được
một chút. Đên thứ tư hay
thứ năm tinh thần tôi rời
rạc, hoang mang. Tôi biết nếu không
làm gì thì sẽ điên mất. Tôi
nhớ lại thì té ra đã năm đêm
rồi mà tôi còn sống, cũng như
những người bạn đồng
đội chỉ có hai bạn bị thương,
nhưng không phải vì bom địch, mà
vì mảnh đạn súng cao xạ trong
bộ đội. Thế rồi, tôi
quyết định một việc gì có
ích cho hết lo, tôi bèn cất một mái
gỗ dày che lỗ hầm để
khỏi bị mảnh bom, đạn. Tôi
tưởng tượng khu đất mênh
mông trên đó bộ đội đóng
rải rác, và tự nhủ khi nào bom
rớt trúng lỗ hầm nhỏ, sâu
đó tôi mới chết được.
Mà cái rủi ấy chỉ là một
phần mười ngàn. Sau hai đêm suy
nghĩ như vậy, tôi bình tĩnh
lại và ngủ được, cả
trong lúc bom địch dội như mưa
nữa!'.
Bộ Hải quân Hoa Kỳ dùng những
bảng thống kê về luật quân bình
để nâng cao tinh thần thuỷ quân.
Một cựu thương binh kể
với tôi khi anh và bạn bè bị
đưa xuống chiếc tàu chờ
dầu xăng Octane (một thứ xăng
rất dễ bén lửa) ai nấy đều
hoảng hồn. Họ tin nếu tàu
bị trúng thuỷ lôi sẽ nổ và
tung họ lên tới mây xanh.
Nhưng bộ Hải quân Hoa Kỳ
biết rõ hơn họ, cho nên đưa
ra những con số chắc chắn
chứng minh rằng 100 tàu dầu bị
thuỷ lôi chỉ có 40 chiếc ấy
chỉ óc năm chiếm chìm ngay nội
trong mười phút. Như vậy nghĩa
là lính thuỷ cí thể nhảy kịp
xuống biển và phần rủi bị
chết không lớn mấy. Tài liệu
ấy có nâng cao tin thần họ không?.
Đây, anh lính thủy kể chuyện
kết: 'Biết luật trung bình rồi,
tôi hết lo liền. Tinh thần của
thuỷ thủ cao hơn. Chúng tôi
biết còn có nhiều phần may và theo
luật trung bình chúng tôi rất có có hy
vọng sống sót được'.
|
9- Không tránh được
thì hãy nhận
Hồi nhỏ tôi toàn
chơi với vài đưa bạn trên
thương lương một ngôi nhà
bỏ hoang ở Missouri. Tôi leo từ trên
sàn gác xuống, đặt chân lên thành
một cửa sổ rồi nhảy
xuống đất. Ngón tay trỏ bên trái
của tôi đeo một chiếc
nhẫn, và khi nhảy, chiếc nhẫn móc
vào đầu một cây đinh, ngón tay
tôi đứt văng ra.
Tôi hoảng lên, la lớn, chắc
chắn là sẽ chết. Nhưng khi
vết thương đã lành tôi không còn
nghĩ chút xíu gì tới bàn tay cụt
một ngón của tôi hết. ích lợi
gì đâu?... Điều gì đã không tránh
được thì lo buồn làm gì?
Bây giờ có khi cả tháng tôi không
nhớ rằng bàn tay trái của tôi
chỉ còn bốn ngón.
Mấy năm trước, có lần lên
thang máy trong một ngôi nhà chọc
trời ở Nữu Ước, tôi
thấy người coi thang cụt bàn tay
trái. Tôi hỏi có buồn vì cụt tay
không, người đó đáp: 'Không, ít
khi tôi nghĩ đến điều
ấy lắm. Tôi sống độc thân
và chỉ khi nào xỏ kim tôi mới
nhớ tới'.
Thiệt lạ lùng! Gặp một anh hoàn
cảnh nào, nếu đã phải
nhận nó, thì ta nhận một cách
dễ dàng, mau mắn; chúng ta tự thay
đôi tánh tình để thích hợp
với hoàn cảnh ấy rồi quên
hẳn nó đi.
Tôi nhớ câu này khắc trên cửa
một ngôi nhà hoang tàn cất từ
thế kỷ 15 ở Amsterdam (Hà Lan): 'Như
vậy đó, mà không thể khác vậy
được'.
Bạn và tôi, trên đường đời,
sẽ gặp nhiều tình thế bất
mãn, không thể thay đổi. Những
lúc ấy ta phải lựa lấy
một trong hai đường sau này:
hoặc nhận tình thế đó mà
tự thay đổi cách sống cho thích
hợp hoặc chống cự lại
để rồi hại sức khoẻ và
sau cùng mang lấy bịnh thần kinh.
Dưới đây là lời khuyên
rất minh triết của một trong
những tâm lý gia tôi ngưỡng mộ
nhất, ông William James: 'Chịu
thuận với hoàn cảnh đi.
Biết nhận một tình thế đã
xảy ra là bước được bước
đầu để thắng nổi
những kết quả của bất
kỳ tai hoạ nào'. Bà Elizabeth Connely
đã khổ sở mới tìm được
chân lý ấy. 'Chính ngày mà nước
Mỹ cử hành lễ đại
thắng quân địch ở Bắc Phi,
tôi nhận được một điện
tín của bộ chiến tranh báo tin
đứa cháu tôi- mà tôi thương
nhất - bị coi là mất tích. Kế
đó, một điện tín khác cho hay nó
đã tử trận'.
Tôi đau đớn vô cùng. Từ trước,
tôi cho đời là rất đẹp. Tôi
có một công việc làm mà tôi thích: chu
cấp cho đứa cháu ấy để
nó nên người. Tôi thấy nó
thiệt là một thanh niên dễ thương,
đáng làm kiểu mẫu. Trời đã
thưởng công tôi! ... Rồi thì
bức điện tín tới. Đất
như sụt dưới chân tôi. Tôi
thấy không còn lý do gì sống nữa.
Tôi bỏ bê công việc, lạt lẽo
với bạn bè, phó hết thảy cho dòng
nước chảy xuôi. Tôi hoá ra chua chát
và uất ức. Tại sao Trời già
độc địa bắt đứa
cháu của tôi đi? Tại sao một
thanh niên dễ thương như
vậy" có cả một tương
lai xán lạn trước mắt - mà
lại phải chết? Tôi không tin có
thể thế được. Tôi uất
ức quá đến nỗi muốn
bỏ việc, bỏ cả xứ
sở, tự giam trong một nơi để
khóc lóc và than thở. Tôi xếp dọn
giấy tờ trên bàn, sửa soạn
đi xa, thì thấy mọt bức thư
bỏ quên, của cháu viết cho tôi khi
thân mẫu tôi mất mấy năm
về trước. Trong thư nói: 'Bà
mất, cô và cháu thấy nhà vắng
hẳn đi, nhất là cô. Nhưng cháu
chắc rằng cố sẽ nén buồn
được, nhờ chân lý cô đã
tự tìm thấy. Chúa không bao giờ quên
được cái chân lý đẹp
đẽ ấy mà cô đã dạy cháu.
Dù ở chân trời góc bể, ngăn sông
cách núi, cháu cũng ghi tâm tạc dạ
ràng cô đã khuyên cháu gặp bất
kỳ nghịch cảnh nào cũng luôn luôn
mỉm cười, vui vẻ nhận nó
như một kẻ trượng phu
vậy'.
Tôi đọc đi đọc lại
bức thư ấy, thấy như có cháu
đang đứng bên cạnh, nói
với tôi: 'Tại sao cô không hành
dộng như cô đã khuyên cháu? Cứ
vui sống đi, mặc kệ tình
thế ra sao thì ra, giấu nỗi lòng
trong một nụ cười rồi vui
vẻ sống'.
Tôi dùng hết cả tâm lực trong công
việc của tôi. Tôi viết thư cho
những người lính khác để
an ủi họ và thân nhân của họ.
Tôi nhận dạy giúp buổi tối
trong một lớp thanh niên, tìm ra
được những nỗi vui
mới, làm quen được với
được với những người
bạn mới. Bây giờ nhớ lại,
tôi cũng ngạc nhiên về sự thay
đổi gần như khó tin đó. Tôi
không còn than thở về cái dĩ vãng
đã thiệt chết rồi nữa. Tôi
vui vẻ sống mỗi ngày, y như
lời cháu khuyên và tôi đã cam nhận
lấy số phận, không chống
lại đời tôi. Đời tôi bây
giờ đầy đủ hơn lúc nào
hết'.
Bà Elizabeth Counley ở Portland đã
học được một điều
mà chúng ta trước sau gì cũng
phải học là: số phận
đã không tránh được thì hãy
nhận và hợp tác với nó đi:
'Như vậy đó và không thể nào
khác được'.
Bài học ấy khó thiệt. Cả
những vấn vương trên ngai vàng cũng
cần phải biết tự chủ
mới theo được đúng. Anh hoàng
George V cho đóng khuôn câu này
rồi treo trên tường trong thư
viện của ngài cung điện
Buckingham: 'Xin ai hãy khuyên tôi đừng
đòi ông trăng trên trời hoặc
bất bình về motoj tình thế không
sao cứu vãn được nữa'. Schopenhauer
cũng nghĩ như vậy trong câu này:
'Trên đường đời, hành lý
quan trọng nhất phải mang theo là lòng
nhẫn nhục'.
Chắc là hoàn cảnh tự nó không
thể làm cho ta sung sướng hay đau
khổ. Chính cái cách ta phản động
lại với nó làm cho ta khổ hay vui. Giê
su nói: Thiên đường ở trong
lòng ta'. Trong lòng ta có Thiên đường
mà cũng có Địa Ngục là
thế đó.
Nếu cần, chúng ta có thể chịu
nổi và thắng được tất
cả nhưng tai hoạ và thảm
kịch vì chúng ta có những năng
lực tiềm tàng mạnh lạ thường
mà biết dùng tới, ta sẽ thắng
được mọi nghịch cảnh.
Chúng ta mạnh hơn chúng ta tưởng.
Ông Booth Tarkington luôn luôn nói: Tai hoạ gì
trời đất bắt tôi chịu, tôi
cũng chịu được hết,
chỉ trừ một tật đui thôi.
Không bao giờ tôi chịu cảnh
ấy'.
Nhưng một ngày kia, khi tới lục
tuần, ông ngó xuống tấm thảm
ở trên sàn nhà thì... sao mà màu mờ,
loé thế này? Ông không còn trông rõ hình
thêu trên thảm nữa. Lại hỏi
một bác sĩ chuyên muôn trị
mắt, ông mới hay cái sự thật
đau đớn này: ông sắp đui.
Một con mắt đã gần mù hẳn
rồi, con mắt kia cũng sẽ mù luôn.
Điều này tôi sợ nhất đã
xảy ra!
Ông Tarkington phản động lại cách
nào khi ông bị 'tai nạn ghê gớm
nhất ấy?' Ông có nghĩ như
vầy không? 'Tới số rồi.
Tới lúc tận số rồi đây'.
Không. Ông ngạc nhiên thấy mình
rất vui vẻ, còn có óc trào phúng
nữa là khác. Ông bực bội vì
những đốm mờ mờ nó đi
qua con người ông, làm ông hết còn
rông rõ, nhưng khi cái đốm lớn
nhất vừa qua khỏi, ông nói: 'A! ông
nội lại tới. Sáng nay đẹp
trời, ông nội đi dạo chơi
đâu vậy?'.
Vận mạng làm sao mà thắng
nổi một tâm hồn như thế?
Khi đã hoàn toàn đui, ông nói: 'Tôi
thấy rằng tôi chịu được
cảnh đui như những người
khác chịu được những tai
nạn của họ. Tôi tin chắc
nếu cả ngũ quan của tôi mang
tật, hoá ra vô dụng nữa thì tôi
vẫn có thể sống với tinh
thần, vì chúng ta trông bằng tinh
thần, sống bằng tinh thần'.
Trong một năm, ông dể cho y sĩ
mổ mắt mộng 12 lần, hy
vọng sẽ khỏi bệnh. Các y sĩ
đều dùng thuốc tê mà không
lần nào ông phản kháng rên la. Ông
biết không sao tránh được cho nên
chỉ có chách để tránh bớt
đau khổ là vui lòng nhận lấy
hết. Tại nhà thương, ông không
chịu nằm trong phòng riêng mà xin
nằm trong một phòng chung để
được gần những người
đau khổ khác. Ông rán nâng cao tinh
thần họ, và sắp bị mổ
mắt, ông biết trước sẽ
đau đớn lắm, nhưng ông rán
nhớ rằng ông hãy còn sung sướng
nhiều. Ông nói: Thiệt kỳ diệu!
Khoa học ngày nay tinh vi tới nỗi
mổ được phận tế
nhị là con mắt! Thiệt kỳ
diệu!'.
Người thường, nếu đui và
bị nổ mắt 12 lần thì chắc
là sợ mà gầy ốm như ma
dại, còn ông Tarkingtom thì nói 'Bây
giờ có đổi nỗi đau đớn
ấy để được nỗi
vui hơn tôi cũng không đổi'.
tại sao vậy? Vì nó đã dạy cho
ông biết an phận, cho biết rằng
sức ông chịu được
những cảnh đau đớn
nhất đời, nó đã cho ông
thấy lời này của thi sĩ John
Milton là chí lý: 'Đui không
phải là khổ, không chịu được
cảnh đui mới là khổ'.
Bà Margaret Faller, người bênh
vực nữ quyền nổi danh nhất
ở Anh, một lần dùng câu này làm châm
ngôn: 'Cõi đời ra sao, tôi nhận làm
vậy!'. Ông già quạu quọ Thomas
Carlyle nghe câu đó, liền nói mỉa:
'Thì tất nhiên mụ ấy phải
đành vậy'! Phải, bạn và tôi,
chúng ta cũng phải nhận số
phận của ta vậy chứ sao!
Nếu chúng ta, rên rỉ giẫy
giụa, sinh ra chua chát, thì cũng không
thay đổi được tình cảm
mà chỉ làm thay đổi được
tính tình, cơ thể ta thôi. Tôi nói
vậy vì tôi đã được kinh
nghiệm.
Có lần tôi không chịu nhận
một tình thế mà tôi không sao tránh
được. Tôi nổi điên,
chống cự lại, sinh ra mất
ngủ, khiến đời tôi thành
cảnh địa ngục. Thành thử tôi
tự mua chuộc thêm những nỗi
bất mãn. Rút cục, sau một năm
tự dày vò tấm thân, tôi phải
nhận cái tình thế mà ngay từ lúc
đầu tôi đã không có cách nào
cải thiện cả.
Sao tôi không noi gương ông già Walt
Whitman mà thản nhiên như loài câu,
loài thú trước những cảnh
tối tăm, đói lạnh, dông
tố?
Hồi nọ, tôi buôn bò trong 12 năm
trời. Không khi nào tôi thấy con bò cái
nổi nóng lên vì nắng đã làm cháy
cỏ hoặc vì trời lạnh quá và mưa
đá, hoặc vì con bò đực
bạn trăm năm của nó o bế
một con bò cái khác. Loài vật thản
nhiên trước cảnh tối tăm, dông
tố và thất tình; vì vậy chúng không
bao giờ đau thần kinh hoặc
bị vị ung, cũng không bao giờ hoá
điên hết.
Như thế có phải là tôi khuyên
bạn cúi đầu mà chịu hết
những nghịch cảnh trên đường
đời không? Không bao giờ tôi có
mảy may ý đó. Như vậy là theo
thuyết định mạng rồi.
Hễ còn hy vọng vãn cứu được
tình thế thì còn phải tranh đấu!
Nhưng khi biết rõ rằng chống
lại cũng vô ích, sự đã
vậy, không sao thay đổi được
thì xin bạn thương bộ thần
kinh của bạn mà đừng quay
cuồng, ngó trước ngó sau, than
tiếc những tình thế đẹp
tốt hơn nữa.
Ông khoa trưởng Hawkers ở trường
Đại học Columbia nói với tôi ông
lấy bài ca 'Ngỗng mẹ' sau này làm
châm ngôn.
Trời sinh mỗi bệnh ở đời
Có phương chữa được, không
thời vô phương
Có phương hãy ráng tìm phương
Vô phương thì chịu, lo lương
làm gì.
Để tìm tài liệu cuốn này, tôi
phỏng vấn nhiều nhà doanh
nghiệp lớn nhất ở Mỹ. Tôi
ngạc nhiên thấy họ hợp tác
với những tình thế không thể
tránh được và đời họ
tuyệt nhiên không có ưu tư gì
hết. Nếu không sống như
vậy thì mệt óc quá, họ chịu
sao nổi. Tôi kể ra đây vài thí
dụ:
Ông J.C.Penney, người sáng lập ra
tiệm tạp hoá Penney có chi nhánh trong
khắp nước nói: 'Dù có bị phá
sản cho tới không còn một đồng
nữa, tôi cũng không lo buồn, vì tôi
biết rằng lo buồn không ích gì
cả. Hết sức làm được
tới đâu thì làm, còn kết quả,
phó cho vận mạng'.
Ông Henry Ford cũng nghĩ tương
tự: 'Khi tôi không điều khiển
được biến cố nó tự
điều khiển lấy'.
Khi tôi hỏi ông K.T.Keller, hội trưởng
nghiệp đoàn 'Chrysler rằng làm cách
nào mà khỏi ưu tư, ông đáp: 'Gặp
một tình thế khó khăn, nếu có
cách cải thiện được thì tôi
cải thiện. Nếu không có cách nào
thì tôi không thèm nghĩ đến nó
nữa, quên nó đi. Không bao giờ tôi
lo lắng về tương lai vì tôi
hiểu không một ai có thể tưởng
tượng tương lai sẽ ra sao mà
ta không hiểu được động
lực đó ra sao và sức gì đưa
đẩy nó. Vậy thì lo nghĩ về
tương lai làm gì?'. Nếu
bạn khen ông K.T.Kaller là một nhà
hiền triết thì ông sẽ ngượng
lắm. Ông chỉ là một nhà doanh
nghiệp khôn khéo đã tự kiếm ra
được triết lý của Epictète
(50~125) dạy cho dân La Mã 19 thế kỷ
trước: 'Chỉ có một cách tìm
được hạnh phúc là đừng
lo nghĩ về những điều ngoài
ý lực của ta'.
Bà Sarah Berhard cho ta một chứng
cớ có giá trị rằng đàn bà cũng
biết hợp tác với những tình
thế không thể tránh được.
Suốt 50 năm, bà như một bà hoàng
trên kịch trường năm Châu, chưa
có cô đào nào được người
ta mến như bà. Nhưng đến năm
71 tuổi thì bà nghèo khổ- không còn
đồng nào hết. Thế rồi
giữa khi thất thế đó, lương
y của bà khi vượt Đại dương,
bà té trên boong tàu và bị thương
nặng ở chân. Chứng viêm tĩnh
mạch bạo phát, chân bà tóp lại,
đau đớn vô cùng, đến
nỗi y sĩ phải quyết định
cưa bỏ. Biết tính bà nóng như
lửa, y sĩ ngại không cho bà hay
quyết định ấy, sợ sẽ
làm bà phát chứng dộng kinh. Nhưng
ông ta đã lầm. Khi hay quyết định
ấy, bà Sarah ngó lương y một
hồi rồi bình tĩnh nói: 'Nếu
phải cưa thì ông cứ cưa.
Số mạng đã bắt vậy.
Trong khi bà nằm trên xe để người
ta đẩy lại phòng mổ, người
con trai của bà đứng bên khóc lóc.
Bà vui vẻ vẫy lại và bảo: 'Con
đợi đó nhé. Má sẽ trở
lại'.
Trên đường tới phòng mổ, bà
đọc lại một màn kịch bà
đã diễn. Có kẻ hỏi có
phải bà là như vậy để hăng
hái lên không thì bà đáp: 'Không, tôi
cốt ý cho các bác sĩ và các cô đều
vững lòng tin. Thần kinh họ
đương bị kích thích dữ'.
Chân lành rồi, bà đi vòng khắp
thế giới, làm cho công chúng say mê thêm
bảy năm nữa.
Elsi Mac Corrmick trong bài đăng
ở nguyệt san Reader's Digest viết: 'Nếu
ta chịu nhận một tình thế không
tránh được thì năng lực
của ta được thong thả và giúp
ta tạo được một đời
sống phong phú hơn'.
Không ai có đủ khí lực và
nghị lực để vừa chống
cự với một tình thế không tránh
được, vừa tạo một
đời sống mới đâu.
Phải lừa một trong hai hành động
ấy, hoặc là cúi đầu chịu
những cơn bão táp tất có trong
đời, hoặc chống lại
với nó để rồi chết'.
Chính tôi đã được mục
đích cảnh chết ấy trong
trại của tôi ở Missouri. tại
đó tôi trồng vài chục gốc cây.
Mới đầu chúng mọc rất mau.
Rồi một trận bão tuyết ào
tới, tuyết đóng nặng trên
mỗi cảnh, mỗi nhánh. Đáng
lẽ uyển chuyển trĩu xuống dưới
sức nặng thì những cây ấu
lại hiên ngang đứng thẳng chóng
cự lại, tới nỗi tuyết
nặng quá, cành phải gãy, thân phải
nứt - rồi tôi phải đốn
bỏ hết đi.
Những cây trong rừng phương
Bắc khôn hơn. Tôi đã đi qua hàng
mấy trăm cây số rừng bốn mùa
xanh tốt ở Canada mà tôi chưa
thấy một cây nào bị tuyết
đè nặng làm gãy hết. Những cây
quanh năm tươi ấy biết
uốn thân, cành dưới sức
nặng, biết cái dạo hợp tác
với những tình thế không tránh
được.'
Các ông thầy võ Nhật dạy các môn
đệ phải 'mềm mại như cây
liễu, đừng cứng cỏi như
cây tùng'.
Biết có bạn tại sao những
vỏ xe hơi lăn trên đường
mà chịu được đủ cái
tội tình: nào cọ vào đường,
nào để lên đá nhọn không?
Mới đàu các nhà chế tạo
những vỏ xe cứng rắn. Nhưng
chẳng bao lâu vỏ xe tan tành ra từng
mảnh. Rồi họ mới chế ra
những vỏ xe mềm hơn để
làm cho sự đụng chạm trên
đường dịu, nhẹ đi và
những vỏ này 'chịu đựng'
được. Trên đường đời
khấp khểnh, bạn và tôi nếu ta
học cách làm cho những sự đụng
chạm dịu bớt đi, thì cuộc
hành trình của ta cũng dài hơn à êm
đềm, sung sướng.
Nếu không theo cách ấy mà cứ
chống lại với những sự khó
khăn trong đời, chúng ta sẽ ra
sao? Nếu không chịu 'mềm mại như
cây liễu' mà cứ nhất định
'cứng cỏi như cây tùng' chúng ta
sẽ ra sao? Dễ biết lắm. Chúng
ta sẽ gây ra những xung đột
bất tận trong thâm tâm ta, chúng ta
sẽ lo lắng, khổ sở, cáu
kỉnh và bị bệnh thần kinh.
Hơn nữa, nếu chúng ta tới
mức phủ nhấn sự thực
đau đớn và lùi về một
thế giới ảo mộng do ta tưởng
tượng, thì ta mất thăng
bằng rồi.
Trong chiến tranh vừa qua, hàng triệu
binh sĩ kinh hoảng đã phải
lựa một trong hai đường này:
chịu nhận một tình thế không
thay đổi được hay là ưu
tư để rồi chết. Như trường
hợp của William H. Casselins. Câu
chuyện ông kể lại dưới
đây trong một lớp giảng
của tôi ở Nữ Ước, đã
được ban giám khảo của trường
chấm thưởng.
'Ít lâu sau khi xung đột canh phòng
bờ biển, tôi bị đưa
tới một nơi nguy hiểm nhất
trên bờ Đại Tây Dương.
Lệnh trên bắt tôi coi việc vận
tải những chất nổ. Bạn
thử tưởng tượng xem. Tôi,
một thằng bán bánh bích quy mà coi
việc vận tải các chất nổ!
Chỉ nghĩ tới sự phải đứng
giữa hàng ngàn tấn thuốc nổ
T.N.T cũng đủ làm cho một anh bán
bánh lạnh xương sống rồi.
Người ta dạy việc tôi trong có
hai ngày, mà những điều chỉ
bảo đó lại càng làm cho tôi
sợ hơn nữa. Không bao giờ tôi
quên được hôm tôi bắt đầu
nhận việc. Trời u ám và lãnh
lẽo. Tôi nhận được
lệnh ở giữa trởi, trên đập
đá tại bờ biển Bayonne.
Lệnh rằng tôi phải coi một
bọn năm người khiêng chất
nổ vào khoang thứ năm trong
chiếc tàu của chúng tôi. Bọn đó
lưng dài vai rộng, nhưng không
biết chút gì về các chất nổ
hết. Thế mà họ phải vận
những thùng chứa một tấn
thuốc nổ T.N.T. Bấy nhiêu chất
nổ đủ làm văng chiếc tàu cũ
kỹ của chúng tôi lên tới mây xanh.
Họ dùng hai sợi dây cáp để
đưa thùng xuống tàu. Tôi luôn luôn
lẩm bẩm: 'Nếu một trong hai
sợi dây đó tuột hay đứt...!'Trời!
Lúc đó tôi mới sợ làm sao!Tôi run
lên. Miệng tôi khô, chân tôi quỵ, tim tôi
đập thình thình. Nhưng tôi không
trốn đâu được hết.
Trốn tức là đào ngũ, là
nhục nhã cho tôi và cha mẹ tôi, là
bị xử bắn nữa. Cho nên tôi không
dám trốn. Tôi phải ở lại.
Mắt tôi không rời những người
phu, thấy họ khiêng những thùng
chất nổ một cách hờ hững
mà lạnh xương sống. Chỉ vô
ý một chút chiếc lá tàu này sẽ
nổ tung lên. Sau hơn một giờ
kinh hãi, tôi mới bắt đầu suy
nghĩ một chút. Tôi tự nhủ:
'Cứ cho là chiếc tàu này sẽ
nổ tung lên thì đã làm sao? Ta sẽ
chết tức tốc, có hay trước
gì đâu? Chết cách đó giản
dị quá, ờ còn hơn là chết vì
nội ung nhiều. Thôi đừng điên
nữa, ở đời ai mà khỏi
chết? Ta đã phải làm công việc
đó, không thì bị bắn. Vậy sao
không rán thích nó đi'.
Tôi tự nhủ như vậy hàng
giờ,và bắt đầu thấy
dễ chịu. Sau cùng tôi bắt tôi
nhận một tình thế không thể
hay đổi được và nhờ
vậy tôi thắng nổi ưu tư và
sợ sệt.
Tôi ghi tâm tạc dạ bài học
ấy. Bây giờ, mỗi lần lo nghĩ
về một điều gì không sao thay
đổi được, tôi nhún vai nói:
'Quên nó đi'. Và tôi thấy phương
pháp ấy công hiệu.
Ngoài cái chết trên thánh giá của
Đức Chúa Giê Su, cái chết
nổi danh nhất trong lịch sử nhân
loại là cái chết của Socrate.
Mấy ngàn năm sau, loài người
vẫn còn đọc và thích đoạn
văn bất hủ của Platon
tả cái chết đó - đoạn văn
ấy là một đoạn đẹp
nhất, cảm động nhất trong văn
học từ xưa tới nay. Có vài
kẻ Athenes ghen ghét hiền triết
Socrate, vu oan cho ông và ông bị xử
tử. Người giữ ngục
vốn quý mến ông, khi đưa cho ông
chén thuốc độc, y nói: 'Sự
thế đã vậy, xin ông ráng vui
vẻ coi thường nó đi'. Socrate
theo lời. Ông nhìn thẳng vào cái
chết bình tĩnh, nhẫn nhục, làm
động tới quỹ thần.
'Rán vui vẻ coi thường một tình
thế phải tới'. Lời đó
thốt ra 399 năm trước Giê su giáng
sinh, nhưng ngày nay cái thế giới gìa
cỗi, ưu tư của bọn ta còn
nhớ lời ấy hơn bao giờ
hết 'Ráng coi thường một tình
thế phải tới'.
Trong 8 năm vừa rồi, tôi đã
đọc hết những sách, báo cũ,
mới mà tôi có thể kiếm được
bàn về vấn đề diệt ưu
tư....Bạn muốn biết một
lời khuyên ngắn, hay nhất mà tôi
đã chọn được trong hết
thảy những sách vở báo chí ấy
không? Thì đây, lời khuyên đó tóm
tắt trong mấy hàng sau này rất
đáng dán lên tấm kính của mọi
phòng tắm để mỗi khi rửa
bụi bặm, mồ hôi trên mặt, chúng
ta cũng rửa luôn những ưu tư
trong óc nữa. Xin nói rõ đó là lời
cầu nguyện viết ra bời Reinhald
Niebu:
'Xin cho tôi
một tâm hồn bình tĩnh để
cam nhận những tình thế không
thể thay đổi được,
một lòng can đảm để thay
đổi những tình thế có thể
thay đổi được và một
tinh thần sáng suốt để
biết phân biệt tình
thế thế nào thay đổi
được, tình thế nào không
thể thay đổi được'.
|
|
10- "Tốp" lo
lại
Bạn có muốn biết cách
kiếm tiền ở thị trường
chứng khoán không? Có ư? Thì cả
triệu người khác cũng muốn như
bạn và nếu tôi chỉ dược cách
ấy, cuốn sách này sẽ bán với
một gía thị phi thường. Nhưng tôi
có thể cho bạn biết một mánh
lớn rất kỳ diệu mà nhiều người
đầu cơ thường dùng có kết
quả. Xin bạn hãy đọc câu chuyện
dưới đây do ông Charles Robert, một nhà
cố vẫn tài chánh kể lại:
'Tôi quê quán ở Texas, đến Nữu
Ước với 20.000 mỹ kim của các
bạn giao cho để đầu cơ
chứng khoán. Tôi tưởng mình dã biết
hết các mánh khoé và đầu cơ thì
sẽ lời, vậy mà rồi lỗ, không còn
một xu. Thiệt ra tôi cũng có lời
trong một vài vụ, nhưng rút cục
vẫn là thua thiệt.
'Nếu là tiền của thì tôi không
cần, nhưng tai hoạ là tiền của các
bạn, mặc dầu số tiền đó
đối với họ không là bao. Vì
thế tôi ngại không muốn gặp
mặt anh em, nhưng lạ lùng thay, họ
chẳng những không phiền hà gì tôi
hết, lại còn như mắc một
thứ bệnh lạc quan bất trị
nữa, vẫn tiếp tục xuất vốn
cho tôi.
'Tôi dã chơi lối 'Sấp ngửa' một
là được hết, hai là thua tận
với sự chỉ trông ở vận
mạng của mình và tin ở những
lời mách bảo kê của kẻ khác. Như
ông H.T. Phillips nói, tô đã 'đầu cơ
bằng tai', ai nói làm sao tin ngay làm vậy'.
'Tôi bắt đầu suy nghĩ về
lỗi lầm của tôi và quyết định
trước khi đầu cơm, sẽ ráng tìm
ra bí quyết của nghề ấy. Và tôi làm
quen với ông Burton S.Castles, một trong
những nhà đầu cơ đã thành công
nhất từ trước tới giờ. Tôi
tin có thể học ông ta được
nhiều điều hay vì ông ta nổi danh là
thành công năm này qua năm khác. Thành công liên
tiếp như vậy, nào đâu phải
chuyện may rủi!'.
'Ông ấy hỏi vài câu về những
vụ đầu cơ trước của tôi
và dạy tôi một thuật mà tôi tin
rằng quan trọng nhất trong nghề đầu
cơ. Ông nói: 'Mỗi khi mua một chứng
khoán văn tự nào tôi cũng quyết
định 'tốp' số lỗ lại. Ví
dụ tôi mua một chứng khoán giá 50
mỹ kim, thì tôi 'lỗ' khi giá nó hạ
tới 45 mỹ kim; nghĩa là khi bán chứng
khoán đó sụt xuống dưới giá mua
5 mỹ kim thì tôi bán liền, hạn chế
số lỗ, không chịu thiệt quá 5
mỹ kim'.
'Ông thầy già đó tiếp: 'Trong những
công việc mua bán đầu tiên, khéo đặt
vốn một cách thông minh, bạn lời
trung bình 10, 25 có khi 50 mỹ kim nữa.
Vậy nếu hạn chế số lỗ là
5 mỹ kim, thì có thể lời khá lắm vì
trong 12 lần chỉ có độ năm
lần bị lỗ'.
'Tôi theo quy tắc đó liền và luôn
từ bấy tời ngay. Quy tắc ấy
đã giúp các bạn xuất vốn và tôi,
đỡ lỗ cả ngàn mỹ kim'.
Ít lâu sau, tôi nhận thấy rằng quy
tắc 'tốp lỗ' đó có thể áp
dụng vào nhiệc việc khá, ngoài việc
đầu cơ. Tôi bèn bắt đầu
'tốp lo' mỗi khi gặp điều gì
ưu phiển bất mãn. Kết quả
rất thần hiệu.
'Chẳng hạn, tôi thường ăn trưa
với một anh bạn ít khi tới đúng
giờ. Trước kia nhiều phen tôi
mất thì giờ đợi anh ta tới
nửa bữa. Sau cùng tôi 'tốp đợi'.
Tôi nói: 'Anh Bill này, tôi chỉ đợi anh mười
phút thì lời hẹn ăn chung bàn của chúng
ta sẽ quẳng xuống biển. Nghĩa là
tôi dông da!'.
Trời hỡi! Phải chi trước kia tôi
có đủ lương tri để
'tốp' tính nóng nảy, tính dễ giận
dữ, tính hay tự bào chữa, hay hối
hận và tất cả nhữn kích thích
về cảm xúc và tinh thần! Tại sao tôi
ngu lừa, không nhận thức những tình
thế có hại cho sự bình tĩnh của
tâm hồn mà tự nhủ rằng 'này Dale
Carnegie, tình thế này chỉ đáng làm cho
anh lo âu đến thế là cùng; Thôi đấy,
hết rồi đấy, đừng lo thêm
nữa, nghe chưa?' Tại sao tôi đã không
hành dộng như vậy?
Nhưng tôi cũng phải nhận, ít
nhất là một lần, tôi đã có chút lương
tri. Lần đó -một lần quan trọng
lắm, một cơn khủng hoảng trong
đời tôi- tôi thấy những cơn mơ
mộng, dự định về tương
lai và những việc làm trong nhiều năm
của tôi tan ra như mây khói. Việc
xảy ra như vầy:
Hồi 30 tuổi, tôi quyết chuyên viết
tiểu thuyết. Tôi sắp thành một
Frank Norris hoặc Jack London hoặc Thomas
Hardy thứ nhì. Tôi hăng hái tới
nỗi qua ở Châu Âu hai năm. Tại đó
tôi sống dễ dàng với mỹ kim
mỗi tháng, vì sau chiến tranh thứ
nhất, ở đây có sự lạm phát
giấy bạc. Trong hai năm ấy, tôi
viết một kiệt tác nhan đề là
'Blizzard' (Dông tuyết), nhan đề ấy
hợp quá vì bản thảo được các
nhà xuất bản tiếp thổi trên cách
đồng Dakota cả. Khi nhà xuất bản
nói thẳng vào mặt rồi rằng
cuốn ấy bỏ là đồ bỏ,
rằng tôi không tài, không khiếu về
tiểu thuyết, thì tim tôi muốn ngừng
đập. Tôi quay gót ra, như kẻ mất
hồn. Có ai đập mạnh vào đầu
tôi cũng không làm cho tôi choáng váng hơn. Tôi
đê mê, rụng rời. Tôi thấy tôi
đương đứng ở ngã tư
đường đời và tôi phải
lựa lấy một quyết định quan
trọng. Làm gì bây giờ? Đi ngả nào
đây? Tôi mê mẩn hàng tuần như
vậy. Nhớ lại lúc ấy chưa
được ai khuyên 'tốp nỗi lo
lại', cái giá trị của một thí
nghiệm cao thượng, có vậy thôi.
Rồi tôi bỏ không nghĩ tới nữa.
Tôi trở lại công việc là tổ
chức và dạy những lớp cho người
lớn. Lúc nào rảnh thì viết tiểu
sử các danh nhân hoặc những loại sách
thiết thực như cuốn bạn
đương đọc đây.
Bây giờ, nghĩ lại, tôi có thấy sung
sướng đã quyết định như
vậy không?
Sung sướng mà thôi ư? Tôi còn thấy
muốn nhảy múa điên cuồng lên
nữa chứ? Tôi có thể thiệt thà nói
rằng không bao giờ tôi phí thời giờ
để tiếc và than thở rằng sao mình
không phải là một Thomas Hardy thứ nhì.
Một đêm, cách đây một thế
kỷ, khi cú kêu trong rừng bên bờ hồ
Walden, ông Henry Thoreau chấm cây bút lông
ngỗng vô bình mực tự tay chế
lấy và chép vào nhật ký: 'Muốn
biết giá trị của một vật là
bao nhiêu thì cứ xét xem bây giờ hoặc
sau này phải đem bao nhiêu đời
sống để đổi lấy vật
ấy'.
Nói một cách khác: Lo lắng về một
việc gì để hại đời
sống ta, tức là đánh giá việc đó
đắt quá, có khác gì điên không?
Chính Gilbert và Sullivan điên như
vậy. Họ biết soạn những điệu
nhạc và lời ca vui vẻ mà họ không
biết chút gì về cách gây hạnh phúc cho
đời họ. Họ đã soạn
mấy bản ca nhẹ nhàng du dương
nhất để làm vui cho người đời
như bản: Patience, Pinafore, The Mikado.
Nhưng họ không tự chủ được.
Họ đầu độc đời họ
chỉ vì cái giá tiền một tấm
thảm. Sullivan mua một tấm thảm
rạp hát của hai người mới
lập. Gilbert thấy đắt tiền quá,
nổi xung lên. Thế rồi họ kiện
nhau và cho tới chết không thèm nói với
nhau nửa lời ca cũng chép lại
gởi cho Gilbert; và khi Gilbert viết rồi
lời ca cũng chép lại gởi cho Sullivan.
Có lần họ phải ra sân khấu cùng
một lúc thì mỗi người đứng
một đầu, người quay mặt ra
phía này để chào khán giả, người
ngó ra phái kia để khỏi trông thấy
mặt nhau. Họ không biết 'tốp'
nỗi giận của họ lại, như
Lincoln.
Một lần, trong trận Nam Bắc
chiến tranh, khi nghe bạn thân tố cáo
những kẻ thù cay độc nhất
cảu mình, ông nói: 'Các anh còn giận dai hơn
tôi nữa. Có lẽ tôi dễ làm lành quá, nhưng
không bao giờ tôi nghĩ rằng giận nhau
là có lợi. Chúng ta đâu có thì giờ
để gây lộn suốt nửa đời
người. Nếu có người nào thôi không
kích tôi nữa thì tôi quên hẳn chuyện cũ
đi liền'.
Tôi ước gì một bà cô của tôi- bà
Edith- cũng dễ quên giận như Lincoln
nhỉ! Bà và ông chồng tên là Frank sống
tại một khu trại dã cầm cố
rồi. Chung quanh là đất cằn và
hầm hố mà trong nhà thì xó nào cũng
đầy những con gián. Hai ông bà làm
việc cực nhọc và chắt bóp từng
xu. Nhưng bà muốn sắm màn và ít đồ
trang hoàng khác cho nhà cửa được sáng
sủa nên đã đi mua chịu những món
ấy ở tiệm tạp hoá Dan Eversole.
Ông thấy bà công nợ thì sinh lo lắng.
Vả lại, cũng như các chủ
trại khác, có tính rất ghét sự mua
chịu, ông ngầm bảo Dan Eversole đừng
bán chịu cho bà nữa. Khi hay tin, bà nổi
giận đùng đùng- và 50 năm sau, bà
vẫn chưa nguôi. Tôi nghe bà kể lại
chuyện ấy cả chục lần rồi.
Lần cuối cùng gặp tôi, bà đã 70
tuổi. Thưa với bà: 'Thưa cô, dượng
làm mất mặt cô như vậy, quả là
dượng có lỗi; nhưng thành tâm
mất mặt cô như vậy, quả là có
lỗi; nhưng thành tâm xét, đã gần
nửa thế kỷ mà cô vẫn càu nhàu
về chuyện đó hoài, thì cô còn vô lý hơn
dượng lắm nữa'. Nhưng lời
khuyên của tôi như nước đổ
lá khoai. Bà dã mất hẳn bình tĩnh trong tâm
hồn và như thế là trả giá rất
đắt nỗi oán giận ấp ủ hoài
trong lòng vậy.
Bẹjamin Fraklin hồi bảy tuổi, lỡ
làm một việc mà 70 năm sau ông còn
nhớ tới. Thuở ấy ông mê một
chiếc còi (tu-huýt), mê tới nỗi,
chẳng hỏi giá chi hết, đã dốc ráo
tiền trong túi ra mua. Bảy chục năm
sau, ông viết thư cho bạn: 'Rồi tôi
về nhà, vừa đi, vừa thổi, thích
chí lắm. Nhưng các anh chị tôi thấy
trả hớ quá, chế giễu tôi,
khiến tôi xấu hổ quá, oà lên khóc'.
Về sau, khi Franklin đã nổi danh khắp
hoàn cầu, làm Đại sứ ở Pháp,
ông còn nhớ rằng nỗi buồn vì mua
hớ mạnh hơn nỗi vui được
chiếc còi, và trước khi làm việc gì,
ông cũng tự nhủ: 'Coi chừng kẻo
hớ như mua còi, nhé!'.
Nhưng nghĩ kỹ bài học còn rất
rẻ. Ông nói: 'Khi lớn lên, suy xét những
hành động của người đời,
tôi tường có rất nhiều người
lớn hơn đã 'mua hớ chiếc còi'. Tóm
lại, tôi nhận thấy rằng họ mua
chuốc hầu hết những nổi
khổ sở của họ vì đã định
sai những vật trên đời và đã
'mua hớ những chiếc còi'.
Gilbert và Sullivan đã mua hớ chiếc còi
của mình. Bà cô Ethid cũng vậy. Theo
bộ Bách khoa tự điển của Anh, thì
'Ông Leon Tolstoi (1828-1910) trong 20 năm cuối
đời có lẽ là người được
ngưỡng mộ nhất thế giới'.
Trong hai chục năm ấy từ 1890 tới
1910, không lúc nào ngớt người đến
nhà ông- như tín đồ hành hương
ở đất Thánh- để được
ngó dung nhan, nghe tiếng nói, hoặc rờ
vạt áo của ông. Mỗi lời ông
thốt, được ngừơi ta chép
liền vào sổ tay, gần như lời thiên
khải vậy. Nhưng về đời
sống, đời sống hằng ngày
của ông, thì Tolstoi 70 tuổi không khôn hơn
Franklin hồi 7 tuổi chút nào hết.
Tôi xin giảng bạn nghe. Ông cưới
một cô mà ông yêu lắm, Sophie Bhers . Đời
sống chung của cặp vợ chồng sung
sướng quá đến nỗi ông bà thường
quỳ gối cầu trời cho được
sống hoài cảnh thần tiên ấy. Nhưng
tính bà cả ghen. Bà thường ăn
mặc giả người nhà quê, mà dò thám
cử chỉ của ông cả khi ông đi chơi
trong rừng. Rồi thì dông tố ghê gớm
nổi lên. Bà lăn lộn trên sàn,
đưa một ve nha phiến lên môi và
dọa tự tử khiến con cái hoảng
sợ, nép vào góc phòng mà la hét.
Còn ông thì làm gì? Ta đừng trách ông, ông
đập chén đập đĩa không
phải là vô cớ. Nhưng còn làm tệ hơn
vậy nữa kia. Ông chép những chuyện
đó vào nhật ký để trút cả
lỗi lên đầu bà! Đó 'cái còi'
của ông đó! Ông nhất định
kiếm cách tỏ cho hậu thế biết
rằng không phải ông mà là do bà có
lỗi. Và bà làm gì đề đáp lại?
Tất nhiên bà đã xe phăng hết
rồi cũng viết nhật ký để
mạt sát ông. Bà còn viết một tiểu
thuyết nhan đề là: Lỗi tại ai?
Trong đó bà tả ông như một con
quỷ còn bà thì như một người
chịu cực hình vậy.
Rồi tấn bi kịch kết cục ra sao?
Tại sao hai ông bà nhất định gia
đình của mình thành một 'nhà thương
điên' như ông đã nói? Đã đành có
nhiều nguyên nhân lắm, nhưng nguyên nhân
chính là cả hai ông bà đều nhiệt tâm
muốn làm cho chúng ta, bạn và tôi cảm
động. Phải, chúng ta là dàn hậu sinh
mà ông bà lo âu về lời bình phẩm khen
che của hậu thế lắm. Nhưng
bạn có mảy may quan tâm về sự ông bà
có lỗi không? Không. Chúng ta đều lo
đến chuyện gia đình Tolstoi. Cặp
vợ chồng khốn khổ ấy dã
trả mắc 'chiếc còi' của họ
biết bao! Năm chục năm sống trong
cảnh địa ngục- chỉ vì không
một người nào có đủ lương
tri để nói 'Tốp lại đi',
hoặc có đủ sáng suốt nhận giá
trị của mỗi sự, mà rằng: 'Thôi
chúng ta tốp chuyện đó ngay bây giờ
nhé. Chúng ta phí đời chúng ta quá. Thôi
đi, đã kéo dài quá rồi'.
Tôi thành thực tin rằng có một trí sáng
suốt biết nhận chân giá trị
của mỗi sự vật là nắm
được bí quyết mầu nhiệm
nhất để cho tâm hồn hoàn toàn bình
tĩnh. Và tôi cũng tin rằng có thể
dẹp được tức thì 50% những
ưu phiền là chúng ta lập được
một thứ kim bản vị riêng cho chúng
ta, một thứ kim bản vị để
đánh gía xem mỗi sự vật quan
trọng tới bực nào đối với
đời sống. |
|
|
|
|
|